Cuộc Hành Quân Phá Sản
Một ngày trước khi tướng Phú tuyên bố Ban Mê Thuột thất thủ, hôm 12-3
-1975 Hạ Viện Mỹ biểu quyết cắt 300 triệu Mỹ kim quân viện bổ túc cho Việt
Nam Cộng Ḥa do Tổng Thống Ford đệ tŕnh Quốc Hội, Đại sứ Mỹ Martin cũng
thông báo cho Tổng thống Thiệu biết quân viện năm tới từ tháng 6 sẽ không
được chuẩn chi, như thế Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa chỉ c̣n đủ đạn dược để
đánh trận trong ṿng 3, hoặc 4 tháng.
Tại Pleiku Liên đoàn 4 Biệt
động quân chưa thể giải tỏa được quốc lộ 19, Sư đoàn 22 BB tại gần Qui
nhơn chiến đấu dữ dội với Sư đoàn 3 Sao Vàng CSBV, phi trường Cù Hanh bị
pháo kích, 3 phi cơ A-37 bị phá hủy.
Sư đoàn 10 sau khi chiếm Ban
Mê Thuột tiến về tuyến Phước An, tại đây ta chỉ c̣n 700 người và 4 khẩu
105 ly.
Viết phần này chúng tôi dựa
vào những sách hồi kư, biên khảo, kư sự… của Tướng Cao Văn Viên, Nguyễn
Đức Phương, Phạm Huấn, Tướng Hoàng Lạc.. cũng tham khảo thêm một số bài
của các nhân chứng và cả tài liệu phía CSBV.
Hôm 11-3 Tổng thống Thiệu họp
Hội đồng Tướng lănh gồm các Tướng Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, Đặng Văn
Quang để tŕnh bầy kế hoạch mà ông gọi là “Tái
phối trí lực lượng”, với t́nh h́nh vũ khí đạn dược như hiện nay
ta không thể giữ cả 4 Quân khu, mà chỉ đủ lực lượng giữ Quân khu 3, Quân
khu 4 và một phần duyên hải Vùng 2, Quân khu 1 chỉ giữ Huế và Đà Nẵng, sẽ
rút bỏ Cao nguyên về giữ đồng bằng, bỏ những vùng xương xẩu để về giữ
những vùng mầu mỡ. Hội đồng Tướng lănh đồng ư, không ai phản đối.
Mất Ban Mê Thuột, Tổng Thống
Thiệu càng biết rơ địch mạnh hơn hồi 1968, địch mạnh hơn thời Mùa hè đỏ
lửa 1972. Nay CSBV xé bỏ Hiệp Định Paris, Đồng Minh ngoảnh mặt làm ngơ
trước t́nh h́nh nguy khốn, ông Thiệu mất tinh thần, đưa ra kế hoạch táo
bạo trong một phiên họp tại Cam ranh ngày 14-3. Trong Hội nghị này có Thủ
Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn
Quang, Thiếu tướng Phạm Văn Phú. Sau phiên họp Tướng Phú kể lại cho Phạm
Huấn, người kư giả chiến trường này đă ghi lại trong Cuộc Trịêt Thoái Cao
Nguyên 1975.
Ông Thiệu cho biết Quốc Hội
Mỹ cắt giảm quân viện khiến ta thiếu thốn đạn dược tiếp liệu, Mỹ hủy bỏ
cam kết yểm trợ bằng không lực khi Cộng Sản vi phạm Hiệp định Paris, lănh
thổ pḥng thủ quá rộng lớn, ta thiếu thốn đạn dược, tiếp liệu, áp lực địch
nay rất mạnh… Ông cho biết Tướng Phú phải đem hết chủ lực quân, chiến xa,
pháo binh của quân đoàn về pḥng thủ duyên hải, nghĩa là rút bỏ Pleiku,
Kontum..
Nghe thế tướng Phú bèn xin
cho toàn bộ quân đoàn ở lại chiến đấu, ông thoáng nh́n thấy sự sụp đổ miền
Nam sẽ diễn ra do kế hoạch “tái phối trí” của Tướng Thiệu.
“- Thưa Tổng thống, cho tôi
được “tử thủ” Pleiku, giữ cao nguyên.
Tướng Thiệu cười nhạt:
- Tử thủ? Với quân số, đạn
dược hiện có, liệu anh chiến đấu được bao nhiêu ngày với Cộng Sản?
- Thưa Tổng thống từ 40 đến
60 ngày!
- Rồi sao nữa?
Tướng Phú khựng lại, đưa
mắt nh́n tướng Viên cầu cứu, nhưng tướng Viên quay đi chỗ khác. Tướng Phú
đáp:
- Tôi sẽ chiến đấu đến cùng,
cho đến khi không c̣n được tiếp tế súng đạn, lương thực nữa!
… Tướng Phú vẫn liều lĩnh nói
với giọng hơi lớn:
- Thưa Tổng thống, thưa quí
vị tướng lănh...
... Nếu rút khỏi cao nguyên năm
nay, th́ một cuộc tấn công khác của Cộng Sản, có thể vào năm tới, sẽ mất
duyên hải và mất nước. Tôi và các chiến sĩ của tôi có chết ở Cao nguyên
bây giờ cũng không khác ǵ chết ở Sài G̣n trong năm tới!”
(Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, trang 85)
Tổng Thống Thiệu bác bỏ ư
kiến Tướng Phú, ông nói đây là kế hoạch chung của Hội đồng tướng lănh mà
ông đă bàn thảo.
- Tôi ra lệnh cho anh mang
chủ lực quân, chiến xa, đại bác, máy bay … về pḥng thủ Duyên hải, và tổ
chức hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột.
. . . .. . . . . . .
. . . .
- Lệnh này, từ cấp tỉnh
trưởng kiêm tiểu khu trưởng trở xuống không được biết.
- Thưa Tổng thống…
- Có nghĩa là các lực lượng
Địa phương quân vẫn ở lại chiến đấu. Các cơ sở hành chánh 3 tỉnh.Pleiku,
Kontum, Phú Bổn vẫn tiếp tục làm việc cùng với Tỉnh trưởng, Quận trưởng
như thường lệ.
. . . . . . . .
. . .
- Quyết định mang tất cả chủ
lực quân chiến xa, pháo binh, máy bay của Quân đoàn II khỏi Pleiku,
Kontum, tôi đă thảo luận với các tướng lănh. Đây cũng là một quyết định
chung của Hội đồng Tướng lănh, như quyết định hôm qua cho Tướng Trưởng
ngoài quân đoàn I.
Pḥng họp im phăng phắc,
không có một phản ứng, chống đối nào. Bỗng tướng Phú hỏi ông Thiệu một câu
gần như lạc đề:
- Thưa Tổng Thống, nếu chủ
lực quân, Thiết giáp, Pháo binh rút đi làm sao Địa phương quân chống đỡ
nổi khi Cộng Sản đánh? Hơn 100 ngàn dân 2 tỉnh Pleiku, Kontum và gia đ́nh
anh em binh sĩ?
- Th́ cho thằng Cộng Sản số
dân đó! Với t́nh h́nh nặng nề hiện tại, ḿnh phải lo pḥng thủ, giữ được
vùng dân cư đông đúc, mầu mỡ… hơn là bị “kẹt” quá nhiều quân trên
vùng Cao
nguyên…”
(CTTCN 1975, trang 85, 86)
Về buổi họp này, ông Cao Văn
Viên thuật lại cũng gần giống như Phạm Huấn, theo ông, Tổng Thống Thiệu cho
biết phải chiếm lại Ban Mê Thuột, Tướng Phú xin thêm quân tiếp viện, ông
Thiệu hỏi Tướng Viên có đủ quân tiếp viện cho Tướng Phú không, Tướng Viên
trả lời không c̣n quân trừ bị. Khi ấy ông Thiệu đứng trước bản đồ miền Nam
nói Ban Mê Thuột quan trọng hơn Pleiku, Kontum nhập lại về kinh tế, dân
số, nhiệm vụ Quân đoàn 2 phải tái chiếm Ban Mê Thuột, ông hỏi Tướng Phú
dùng đường nào để đem quân về tái chiếm Ban Mê Thuột, Tướng Phú đề nghị
theo đường số 7B.
Văn Tiến Dũng cũng đă ghi
lại lời khai của Chuẩn Tướng BĐQ Phạm Duy Tất bị CS bắt trong hồi kư của
y. Tướng Tất cho biết chiều 14-3, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú sau khi dự
Hội nghị Cam Ranh về đă họp Bộ Tham Mưu Quân đoàn và kể lại diễn tiến buổi
họp. Ông Thiệu hỏi Tướng Viên c̣n quân trừ bị không, Tướng Viên nói không
c̣n, ông Thiệu hỏi Tướng Phú nếu không có quân tăng viện th́ giữ được bao
lâu, Tướng Phú nói có thể giữ được một tháng nếu có yểm trợ không quân,
tiếp tế bằng không vận về đạn dược, vật liệu và bổ sung quân số bù lại
thiệt hại vừa qua, ông sẽ ở lại Pleicu chiến đấu và chết ở đó. Ông Thiệu
nói không thoả măn được các điều kiện đó, CS th́ rất mạnh nên phải rút
khỏi Kontum, Pleiku đưa quân về giữ đồng bằng duyên hải. Sau đó ông Thiệu
hỏi rút bằng đướng số 19 được không, Tướng Viên trả lời đường này rất nguy
hiểm, ông Thiệu hỏi đường số 14 đi được không, Tướng Viên đáp đường 14
không thể đi được. Cuối cùng chỉ c̣n đường số 7B từ lâu không dùng tới
nhưng tạo được sự bất ngờ. Tướng Phú cũng cho biết theo lệnh ông Thiệu chỉ
rút các đơn vị chủ lực, bỏ Địa phương quân lại, không được thông báo cho
các Tỉnh trưởng biết để họ ở lại tiếp tục chống giữ…
Như vậy những lời thuật lại
của Phạm Huấn, Tướng Viên, Văn Tiến Dũng.. gần giống nhau.
Kế hoạch đă được coi như hợp
thức hóa và lệnh triệt thoái được ban hành, các Tướng lănh không ai phản
đối. Khi bàn việc lựa chọn đường rút quân, Tướng Viên cho biết đường Quốc
lộ 21 không thể xử dụng được v́ đường 14 giữa Pleiku-Ban Mê Thuột đă bị
địch cắt, Bắc Việt hiện có 3, 4 sư đoàn chính qui tại chiến trường Ban Mê
Thuột, không thể từ đó xử dụng đường 21 về Nha Trang. Đường 19 nối Pleiku-
Qui Nhơn cũng khó thành công v́ đèo An Khê đă bị cắt ở hai phía Đông, Tây,
Việt Cộng đóng chốt nhiều nơi, trước đây Pháp đă từng bị Việt Minh phục
đánh kích tan tác trên đèo này. Ngoài đường số 7B không c̣n đường nào
khác, Tướng Phú đề nghị chọn đường số 7B, kế hoạch được chấp thuận.
Tổng Thống Thiệu nói kế
hoạch rút quân để bảo toàn lực lượng hầu tái chiếm Ban Mê Thuột, ông dặn
tướng
Phú phải giữ bí mật, không được cho các Tỉnh trưởng biết, chỉ có chủ lực
của Quân đoàn rút, Địa phương sẽ phải ở lại chiến đấu, như vậy về cơ bản
kế hoạch chỉ là sự lừa dối lẫn nhau, kế hoạch đượm vẻ bất nhân, tàn nhẫn.
Chiều 14-3 Bộ Tư lệnh Quân đoàn triệu tập các sĩ quan cao cấp để thông
báo lệnh rút bỏ Cao nguyên tuy nhiên không có giấy tờ Lệnh hành quân cấp
Quân đoàn, cuộc hành quân tổ chức vội vă không được chặt chẽ. Tướng Phú
lệnh cho Lữ đoàn 2 Kỵ binh rút từ đèo Mang Yang về tăng phái cho Liên đoàn
23 Biệt động quân và Công binh để sửa chữa cầu cống, giữ an ninh trên lộ
tŕnh đường số 7B. Dưới thời ông Diệm Cheo Reo được tách ra khỏi Pleiku
thành lập tỉnh Phú Bổn, dân số 95 ngàn người, 70% là đồng bào Thượng.
Tỉnh Lộ 7B từ ngă ba Mỹ Thạnh
tới Tuy Hoà trước đây là đường trải đá, có 3 cầu chính: Phú Thiện 50m, Le
Bac 600m, Cà Lúi 40m. Đoạn cuối tỉnh lộ 7B trong địa phận Tuy Hoà, quận
Củng Sơn không an toàn cho sự lưu thông.
Ngày 16-3 đoàn xe quân sự
bắt đầu rời Pleiku, Tướng Phú và Bộ Tư lệnh đi trực thăng về Nha Trang, bỏ
lại Chuẩn tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc đám di tản. Theo Tướng Hoàng Lạc
cuộc lui binh gồm có 4 đoàn, mỗi đoàn 250 xe, tổng cộng có 1200 xe cộ,
theo Phạm Huấn có tất cả 4,000 quân xa đủ loại, mỗi ngày một đoàn xe. Ngày
16-3 đoàn xe lên đường êm xuôi v́ có yếu tố bất ngờ, thấy di tản nhanh và
dễ dàng nên khi tới Phú Bổn Tướng Phú ra lệnh ngưng lui binh và lập pḥng
tuyến tại Hậu Bổn. Các biến cố dồn dập sau đó vượt khả năng của giới thẩm
quyền, quân nhân tại Phú bổn bị ảnh hưởng giây chuyền cũng hốt hoảng gia
nhập đoàn chạy loạn.
Ngày hôm sau 17-3 dân chúng
Kontum, Pleiku chạy ùa theo làm náo loạn cuộc lui binh, t́nh h́nh đă không
thuận lợi như ngày đầu mà lại gây nhiều trở ngại cho sự triệt thoái.
Ngày 18-3 Liên đoàn 7 Biệt
động quân đang cùng thiết giáp đánh chốt Việt Cộng xui xẻo bị không quân
oanh tạc lầm, gây nhiều thương vong cho quân bạn. Hỗn loạn xẩy ra, lính
Thượng nổi loạn đốt doanh trại và giết nhiều người Việt khiến t́nh h́nh
càng phức tạp, bọn lưu manh côn đồ, bọn nằm vùng đốt chợ, Việt Cộng pháo
kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn người di tản, tối đến địch pháo
kích thị xă gây nhiều tử thương cho quân dân di tản, các chiến xa M-48,
M-41 bị phá hủy 70%, lực lượng chiến xa pháo binh dồn đống tại Phú Bổn.
Sau trận pháo kích dữ dội của Cộng quân, các xe tăng M-48, M-41, đại bác
bị hư hại hết không thể xử dụng được, 40 chiến xa và 8 khẩu 175 ly bị phá
hủy.
Từ ngày 16-3-1975 Sư đoàn
320 Việt Cộng được lệnh hành quân cấp tốc đuổi theo đánh phá đoàn xe triệt
thoái, đến 18-3 lực lượng lớn của Việt Cộng tiến vào Phú Bổn, đánh phá dữ
dội đám quân triệt thoái đang ùn tại đây rồi tiếp tục đánh xuống Củng Sơn.
Chúng gây kinh hoàng cho quân dân triệt thoái, các Liên đoàn Biệt động
quân, thiết giáp, bộ binh của VNCH bị thiệt hại nặng. Địch xử dụng nhiều
đại bác, xe tăng lấy được của VNCH để truy kích đánh phá đoàn quân triệt
thoái, một lỗi lầm tai hại của cuộc lui binh mà không ai ngờ tới.
Nhận được báo cáo t́nh h́nh
nguy khốn Tướng Phú ra lênh bỏ Hậu Bổn để về Tuy Ḥa. Cuộc chạm súng tại
Hậu Bổn kéo dài tới sáng hôm sau, đoàn quân đi được 20km th́ Cộng quân đă
tràn vào Phú Túc, Liên đoàn 7 BĐQ chiếm lại quận Phú Túc. Khi ra khỏi Phú
Túc người ta bắn nhau để tranh lên trước, súng nổ khắp nơi giành đường
đi, hỗn loạn ngày càng trầm trọng do các binh sĩ ră ngũ, đào binh gây ra.
Binh lính chửi rủa Tổng thống Thiệu suốt dọc đường v́ cuộc lui binh thê
thảm này, dân chết lính chết, thật là một địa ngục, một hành lang máu.
Công binh lập 2 cầu nổi, một
tại Le Bac, một tại Đồng Cam, đoàn xe đến được sông Ba th́ bị cát lún, mất
ba ngày để trực thăng chở vỉ sắt lót đường, dù gặp khó khăn đoàn xe đầu
tiên về tới Tuy Hoà, chỉ có một chiếc xe bị kẹt giữa cầu nổi khiến cả đoàn
quân tắc nghẽn. Chỉ mất hơn một giờ, CSBV từ Thuần Mẫn đổ xuống tổ chức
các chốt chặn đường, một tiểu đoàn ĐPQ và một tiểu đoàn BĐQ được giao nhổ
chốt. Ngày 22-3 hai tiểu đoàn BĐQ ở đoạn hậu đánh tan Trung đoàn 64 (SĐ
-320 CS) gây nhiều thiệt hại, Trung đoàn phải rút lui. Địch đưa thêm các
lực lượng đă tham chiến tại Ban Mê thuột với chiến xa yểm trợ theo tỉnh lộ
287 đổ xuống đường số 7B. Tướng Cẩm báo cáo Tướng Phú, Tướng Phú ra lệnh
tan hàng, Cẩm và Bộ tham mưu bay trực thăng về Tuy Hoà, những người c̣n
lại chạy về hướng Đông. Phía Tây xe tăng Việt Cộng đang tiến tới, hướng
Bắc là Pleiku, hướng Nam Việt Cộng đang đóng chốt, ai len lỏi theo sông Ba
th́ về được Tuy Hoà. Ngày 26-3 tiểu đoàn 34 BĐQ thanh toán các chốt sau
cùng tại xă Mỹ Thạnh, những người xe c̣n lại của cuộc lui binh đă tới được
Tuy Ḥa, trong số 1,200 xe cộ chỉ có 300 mở đường máu tới nơi.
Sáu năm sau, vào giữa tháng
3-1981, Đài phát thanh VOA đă b́nh luận.
“Cuộc rút quân trên đường số 7
được coi như một cuộc thảm bại lớn nhất trong lịch sử chiến tranh tại miền
Nam Nước Việt từ trước đến nay”.
Phạm Huấn gọi đó là hành
lang máu, con đường máu và nước mắt dài 300 km trong 9 ngày đêm, đó cũng
là một cuộc hành quân phá sản. Hậu quả là tổn thất của cuộc lui binh thật
khủng khiếp, theo Nguyễn Đức Phương khoảng 60 ngàn chủ lực quân khi tới
Tuy Hoà chỉ c̣n khoảng một phần ba 20 ngàn người, 5 Liên đoàn BĐQ khoảng
7,000 chỉ c̣n 900 người, Lữ đoàn 2 thiết kỵ với hơn 100 xe tăng thiết giáp
chỉ c̣n lại 13 cái M-113.
Ông Cao văn Viên cho biết
“Ít nhất 75% khả năng tác
chiến của quân đoàn II bao gồm sư đoàn 23 bộ binh cũng như các lực lượng
Biệt động quân, thiết giáp, pháo binh, công binh và truyền tin đă bị hủy
hoại chỉ trong ṿng có mười ngày. Chiến dịch đánh chiếm lại Ban Mê Thuột
không thể thực hiện được, đơn giản chỉ v́ Quân đoàn 2 không c̣n lực lượng
tác chiến nào cả. Quân Cộng Sản đă chiếm được Kontum, Pleiku không cần
phải chiến đấu. Khuyến khích bởi chiến thắng với tầm mức không ngờ, các sư
đoàn F10, 316 và 320 CSBV quyết định đánh tới. Ngay lúc bấy giờ, địch quân
biết rằng lực lượng mà Quân đoàn II xử dụng để ngăn chận bước tiến quân
của họ về hướng bờ biển chỉ c̣n là Lữ đoàn 3 Dù tại Khánh Dương”
(Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, trang 738)
Bắc Việt cho biết đă tiêu
diệt trên 14 ngàn chủ lực quân nguỵ, chiếm được 5,760 khẩu súng các loại
trong đó có 22 đại bác 155 ly, 9 khẩu 175 ly, 48 khẩu 105 ly, chiếm và phá
hủy 2000 xe cộ các loại …
Theo tài liệu Mỹ (The World
Almanac Of The Viet Nam War.) và của Nguyễn Đức Phương, trong số 400 ngàn
dân Cao nguyên chạy loạn chỉ có 100 ngàn tới được Tuy ḥa. Theo Tướng
Hoàng Lạc trong số 200 ngàn dân chạy loạn chỉ có 45 ngàn tới Tuy Hoà. Các
kho quân dụng tại Kontum, Pleiku bỏ ngỏ, tất cả quân dụng, vũ khí trị giá
253 triệu Mỹ Kim lọt vào tay Cộng quân. Sự thiệt hại về tinh thần c̣n to
tát hơn nhiều. Theo tướng Hoàng Lạc kế hoạch không đầy đủ, kỷ luật hỗn
tạp, không nghiên cứu lộ tŕnh, cầu cống, dân chúng và gia đ́nh binh sĩ
hỗn độn làm cho quân đội mất tinh thần khiến ai cũng chỉ lo chạy tháo
thân. Dân chúng nghe tin tức bi quan qua đài BBC đă ồ ạt chạy về phía Nam
làm náo loạn cuộc triệt thoái khiến cho tinh thần binh sĩ xuống thấp.
Tổng cộng 60 ngàn quân triệt
thoái chỉ có 20 ngàn tới được Tuy Hoà, khoảng 200 ngàn dân chỉ có 45 ngàn
tơi nơi yên lành, như vậy hằng 100 ngàn quân dân hoặc bị bắt, thương, bị
giết. Những người thương binh trong các bệnh viện cũng như bị thương trên
đường chạy loạn chỉ có nước nằm chờ chết v́ bác sĩ y tá không c̣n nữa, ai
cũng chỉ lo chạy tháo thân, số người bị thương bị giết.. có thể lên tới
hằng vạn hoặc nhiều hơn nữa.
Ông Cao Văn Viên nói:
“Thất bại tự tạo của
quân đoàn II là một giấc mơ hăi hùng trên cả hai phương diện tâm lư và
chính trị cho dân chúng cũng như cho QLVNCH. Rối loạn, lo âu, sợ hăi, lên
án, tội lỗi cũng như thất vọng bắt đầu đè nặng lên tâm trí mọi người”
Nguyễn Đức Phương (CTVNTT, trang 738, 739).
Những tin đồn cắt đất nhường
cho Cộng Sản lan nhanh khiến người ta đổ sô nhau chạy về hướng Nam, Quân
khu 1 cũng rơi vào t́nh huống tương tự. Chúng tôi nhớ lại ngày 27-3 trên
đường di tản từ Lâm Đồng ra Phan Rang , một sĩ quan trẻ có nói.
“Vùng Một và Vùng Hai nhường
cho nó, ḿnh chỉ c̣n giữ từ Vùng Ba trở xuống như Nam Kỳ Quốc ngày xưa,
ḿnh phải ráng về Quân khu Ba”
Không biết tin đồn ấy do đâu
mà ra , cũng có thể do CS nằm vùng tung ra để gây hoang mang náo loạn,
tin cắt đất này đă ảnh hưởng vô cùng tai hại, cùng với sự tuyên truyền
xuyên tạc của đài BBC Luân Đôn, quân dân Vùng 1 và 2 cứ ùn ùn kéo nhau
chạy về phương Nam khiến cho CS không phải đổ máu vẫn chiếm được nhiều
lănh thổ. Trong khi ấy tại Sài G̣n phía đối lập tăng hoạt động bất tín
nhiệm chính phủ Thiệu, quân đội cũng mất tin tưởng người ta cho rằng chỉ
có phép lạ may ra cứu được miền Nam. Cuộc lui binh trên tỉnh lộ 7B đă đi
vào vết xe đổ của trận Cao Bắc Lạng năm 1949 và cuộc di tản Quảng Trị cuối
tháng 4-1972. Cuối tháng 9-1949, Đại Tá Charton triệt thoái 3 tiểu đoàn
Pháp ra khỏi Cao bằng đến đầu tháng 10 bị Việt Minh chận đánh tan ră, Pháp
mất 7,000 quân và nhiều đơn vị tinh nhuệ, 500 quân xa, trên 100 súng cối
và 13 đại bác, 10 ngàn súng cá nhân và cộng đồng, đại liên trung liên,
trận đánh đă rung động cả nước Pháp.
Cuối tháng 4 năm 1972, các
đơn vị pḥng thủ Quảng Trị dưới sự chỉ huy của Tướng Vũ Văn Giai chiến đấu
trong tuyệt vọng, vùng trách nhiệm của Sư đoàn 3 thu hẹp dần, Việt Cộng
tấn công phía Tây và Nam Quảng Trị, cô lập lực lượng pḥng thủ, binh sĩ ta
ngày càng suy sụp tinh thần trước những trận pháo kích dữ dội của CSBV.
Trước hoàn cảnh thiếu thốn tiếp liệu trong khi địch tấn công dữ dội, Tướng
Giai tŕnh bầy kế hoạch triệt thoái về Nam sông Thạch Hăn với Trung Tướng
Hoàng Xuân Lăm, Tư lệnh vùng 1. Được Tư lệnh chấp thuận, ông cho lui
binh tức th́ ngày 1-5-1972 Sư đoàn 3 và các lực lượng tăng phái như Thiết
giáp, Biệt động quân, Thuỷ quân lục chiến.. tất cả khoảng 9 Trung đoàn ồ
ạt chạy về Nam qua Quốc lộ I. Cộng quân thừa cơ pháo theo chết như rạ
trên đại lộ kinh hoàng, Quốc lộ đầy các loại xe bốc cháy, hàng mấy ngh́n
người bỏ xác tại đây, Lữ đoàn thiết kỵ có hơn 1,000 người tử thương, Sư
đoàn 3 chết 2,700 người, mất 100 xe tăng, 140 đại bác …
Đại tá Phạm bá Hoa nói.
“Những bài học chiến thuật
trong trường Vơ bị cũng như trường Đại học quân sự..đều thừa nhận rằng,
trong các cuộc hành quân th́ hành quân rút lui (hay triệt thoái, lui binh)
là nhiều nguy hiểm hơn các cuộc hành quân khác, v́ đơn vị đưa lưng về phía
địch. Khi tấn công th́ trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, c̣n
trong rút lui th́ trước mặt là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiến tuyến.
Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học lui binh là phải có một
lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu
tuyến), c̣n lực lượng lui binh th́ tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến),
ngoài ra phải được không quân quan sát và yểm trợ hoả lực nữa.
Với cuộc hành quân giao tiếp
chậm chạp từ Tuy Hoà lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên
đường lui binh vô cùng hỗn loạn v́ bị quân Việt Cộng liên tục phục kích,
tập kích. Khi về đến Tuy Hoà th́ tổn thất đến nỗi không c̣n khả năng thực
hiện kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị
chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết v́ súng
đạn, chết v́ xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa băi, chết v́
tranh nhau miếng ăn nước uống, chết v́ cướp giật…”

Cuộc Rút Quân Trên Đường Số
7
Cũng theo ông Phạm bá Hoa,
một điều trớ trêu là ta tưởng Việt cộng bao vây Pleiku nhưng thực ra khi
quân ta rút đi ngày 16-3-1975 th́ bốn ngày sau đó, 20-3 địch mới tiến vào
tỉnh lỵ sở dĩ như vậy v́ ta thiếu tin t́nh báo. Việt Cộng c̣n ở cách xa
Pleiku rất nhiều nhưng Tướng Phú đă quá sợ hăi, ông tưởng địch sắp vây tấn
công tới nơi. Sự thực các Sư đoàn Việt cộng c̣n ở xa về phía Nam và Đông
Nam Pleiku và gần đoàn quân triệt thoái nên ta mới bị địch pháo kích, đánh
phá gây thiệt hại cho đoàn quân nặng nề chưa từng thấy trong 20 năm chiến
tranh.
Theo ông Cao Văn Viên, kế
hoạch rút bỏ Quân khu 2 và 1 của Nguyễn văn Thiệu là do một ḿnh ông ấy
nghĩ ra, không hỏi ư kiến ai. Kế hoạch được gọi một cách bóng bẩy văn hoa
“ Tái phối trí lực lượng” nhưng thực ra chỉ là sự tháo chạy một cách hỗn
độn vô tổ chức, không nghiên cứ lộ tŕnh, vô kỷ luật… đánh lừa lẫn nhau.
Ông Cao Văn Viên cho rằng đó là một kế hoạch đúng nhưng thực hiện quá trễ,
đúng lư ra phải thực hiện từ 6 tháng trước. Dù kế hoạch đúng về quân sự
nhưng cũng khó có thể thể chấp nhận được v́ nó là một kế hoạch bất nhân.
Khi ông Thiệu lệnh cho Tướng Phú khi rút Quân đoàn 2 phải dấu kín không
được cho địa phương biết để lừa họ phải ở lại chiến đấu. Lệnh này đă gây
tệ trạng cấp lớn bỏ quân, bỏ dân chạy trước khi cuộc tháo chạy bắt đầu
diễn ra, kế hoạch cho phép bỏ rơi đồng bào ruột thịt của ḿnh vào tay Cộng
sản, chính người miền Nam đă bỏ rơi lẫn nhau trong khi ta lại lớn tiếng
chỉ trích người Mỹ bỏ rơi đồng minh.
Kế hoạch rút quân về duyên
hải để rồi từ đó theo đường Quốc lộ 21 lên tái chiếm Ban Mê Thuột của ông
Thiệu nói trong phiên họp tại Cam Ranh thật không có ǵ vô lư hơn. Đường
rút quân từ tỉnh lộ 7B xuống Tuy Hoà, từ đó xuống Nha Trang rồi lại từ Nha
Trang lên Ban Mê Thuột dài gấp 3 lần đường Quốc Lộ số 14 từ Pleiku xuống
Ban Mê Thuột, đầy gian nan nguy khốn. Lui binh để tái chiếm Ban Mê Thuột
chỉ là một cách nói dối để đánh lừa các Tướng Lănh trong phiên họp và để
che dấu cái ư định rút bỏ Cao Nguyên của ông mà thôi.
Hầu như tất cả giới quân
nhân, chính khách, kư giả truyền tin… đều cho rằng kế hoạch tái phối trí,
rút bỏ Quân khu 1 và 2 về bảo vệ Quân khu 3 và 4 của ông Thiệu là liều
lĩnh, tai hại nó đă làm sụp đổ miền Nam nhanh chóng lại đẩy bao nhiêu
quân, dân vào chỗ chết một cách oan uổng. Kế hoạch tỏ ra rất không tưởng
v́ không thể di tản hàng ngh́n xe cộ, hằng mấy trăm ngh́n quân dân chạy
loạn tới nơi tới chốn qua một con đường đă bỏ hoang từ bao lâu nay, cầu
cống hư hỏng, cũ kỹ chật hẹp. Ông Thiệu quá độc đoán khăng khăng cho di
tản Pleiku trong khi Tướng Phú và binh lính của ông rất muốn ở lại chiến
đấu tới cùng để giữ đất. Theo Tướng Cao Văn Viên kế hoạch tái phối trí do
ông Thiệu tự nghĩ ra, ông không hề bàn bạc với ai. Sự vô lư và cẩu thả của
kế hoạch khiến nhiều người cho rằng ông Thiệu chơi tṛ tháu cáy giả vờ
thua chạy để Mỹ sót ruột phải nhẩy vào.
BV không thể ngờ miền Nam lại
có thể sai lầm lớn lao về chiến lược đến thế, đối với họ kế hoạch triệt
thoái Cao nguyên của ông Thiệu là một tặng phẩm từ trên trời rơi xuống.
Văn Tiến Dũng lấy làm ngạc nhiên khi thấy cả một Quân đoàn trang bị hiện
đại lại bỏ địa bàn hoạt động để lui binh.
Sự sai lầm của kế hoạch tái
phối trí lực lượng đă khiến cho VC chiếm được cả hai tỉnh Kontum Pleiku mà
không mất một viên. Lệnh cho Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi Cao nguyên,
Tướng Thiệu đă mở một cuộc hành quân phá sản và dọn cỗ sẵn cho Việt Cộng
xơi, chưa bao giờ kẻ địch lại sung sướng thoải mái như tháng 3-1975, trong
ṿng một tuần lễ cả Cao nguyên rơi vào tay Cộng sản, tai hại hơn nữa nó
kéo theo sự sụp đổ của hệ thống pḥng thủ Quân đoàn 2.
Lần đầu tiên trong chiến
tranh Đông Dương cả một quân đoàn phải rút chạy,. Thất bại trên đường số
7B một phần do thất thủ Ban Mê Thuột, nếu không mất Ban Mê Thuột chắc
không ai nghĩ phải bỏ Kontum Pleiku, từ sai lầm chiến thuật đi đến sai lầm
chiến lược. Ngoài ra tin cắt quân Viện của Quốc Hội Mỹ cũng làm ông Thiệu
hốt hoảng muốn điên cái đầu. Các cuộc hành quân không được Bộ Tổng tham
mưu điều khiển giám sát, Tổng thống ra lệnh trực tiếp cho các Tư lệnh quân
đoàn, Bộ Tổng tham mưu không được ra bất cứ lệnh nào cho các đơn vị, chính
v́ ông Thiệu dành độc quyền lănh đạo nên mới đưa tới sụp đổ hệ thống pḥng
thủ nhanh như vậy.
Triệt thoái là một lệnh bí
mật, chỉ một số ít sĩ quan cao cấp của Quân đoàn được truyền đạt, sự thực
đó chỉ là một sự dối trá lừa gạt lẫn nhau để bỏ nhau chạy trước. Theo
Tướng Hoàng Lạc cuộc rút lui vội vă không có kế hoạch đầy đủ, không nghiên
cứu lộ tŕnh, cầu cống, dân chúng và gia đ́nh binh sĩ hỗn độn. Nhiều
người cho rằng Tướng Tư lệnh Phú không đủ khả năng kiểm soát đôn đốc cuộc
lui binh cấp Quân đoàn, sự thực không hẳn như vậy, chẳng riêng ǵ tại
quân khu 2 mà ngay cả Quân khu 1 kiện Tướng Ngô Quang Trưởng cũng đành bó
tay không thể kiểm soát nổi t́nh h́nh rối loạn.
Phạm Huấn cho rằng trên thực
tế không có một lệnh tổng quát nào cả, cuộc lui binh không được tổ chức,
giám sát, thi hành báo cáo chính xác, các ông Tổng tham mưu trưởng Cao
Văn Viên, Phụ tá hành quân Lê Nguyên Khang, Tham mưu trưởng liên quân
Đồng văn Khuyên .. chưa hề một lần bay ra thị sát mặt trận, họ chỉ ngồi
trong pḥng lạnh điều binh khiển tướng bằng điện thoại. Cũng theo Phạm
Huấn các Tướng Trần văn Cẩm, Phạm Duy Tất, Phạm văn Phú … những người chỉ
huy cuộc triệt thoái bay trực thăng thật cao trên trời.. cả một Quân đoàn
không có ai chịu trách nhiệm.
Tướng Trần văn Nhựt, người
hùng An Lộc năm 1972 lại cho rằng Trung Ương đă không yểm trợ cuộc triệt
thoái đến nơi đến chốn:
“Mặc dù Cộng quân có gia
tăng quân số thật nhưng chính những quyết định hạn chế đạn dược, rút quân
sai lầm nói trên đă ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần toàn thể Quân, Dân,
Cán Chính và làm cho sự sụp dổ miền Nam VN quá nhanh và quá nhục nhă. Đúng
ra khi lệnh rút lui Quân đoàn 2/QK2, Tổng thống Thiệu phải chỉ thị cho
Đại Tướng Viên, các vị Tư lịnh và Chỉ huy trưởng các Quân Binh Chủng phải
ra Nha Trang để tận t́nh giúp Tướng Phạm Văn Phú điều động và yểm trợ cuộc
rút quân lớn nhứt trong lịch sử QLVNCH. Thiếu tất cả mọi hỗ trợ căn bản
cần thiết, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đành làm người hùng cô đơn v́ mọi sự
việc rút lui ngoài khả năng và kinh nghiệm của ông”
Cuộc Chiến Dang Dở trang 272
Sau này ngày 21-4-1975, Sư
đoàn 18 BB đă thực hiện rút quân tại Xuân Lộc có trật tự, an toàn, ít
thiệt hại, người ta đă cho di tản gia đ́nh binh sĩ trước để lính an tâm
chiến đấu. Cuộc rút quân của Sư đoàn 18 cho thấy thất bại của Quân khu 2
và 1.
- Thiếu chuẩn bị, không lập
kế hoạch lui binh v́ quá gấp rút.
- Không kiểm soát đôn đốc cấp
chỉ huy.
- Gia đ́nh binh sĩ, dân chúng
di tản làm rối loạn hàng ngũ quân đội.
- Không duy tŕ được kỷ luật
Dân chúng tị nạn làm náo
loạn cả lên, binh lính mất tinh thần nên nhiều đơn vị đă ră ngũ, tan hàng
mặc dù chưa có chạm súng, người dân chạy tị nạn đă làm đảo lộn kế hoạch
triệt thoái của Quân đoàn.
Cuộc triệt thoái khiến cho
Cao nguyên lọt vào tay Cộng quân chỉ trong mấy ngày, nó cũng kéo theo sự
sụp đổ của toàn bộ Quân khu 2 và cũng đă để lọt vào tay Việt Cộng nhiều vũ
khí đạn dược, xe tăng, đại bác.
Tỉnh Quảng Đức nằm ở tây Nam
Darlac (Ban Mê Thụôt) và phía Bắc Lâm đồng vẫn c̣n đứng vững sau 12 ngày
cầm cự tại quận Kiến đức phía Tây thị xă Gia nghĩa. Ngày 9-3 một Sư đoàn
Việt Cộng chiếm quận Đức lập phía Tây Bắc Quảng Đức, c̣n lại Quận Kiến
đức phía Tây thị xă vẫn chống trả lại cuộc tấn công dữ dội của VC đông
gấp bội bên Phước Long đánh qua từ 9-3 cho tới 22-3. Nhờ sự chiến đấu anh
dũng của hai Tiểu đoàn 81, 82 thuộc Liên đoàn 24 BĐQ và hai đại đội ĐPQ
Phan Rang tăng cường quận Kiến Đức vẫn c̣n đứng vững, họ bảo vệ được thị
xă yên ổn được gần hai tuần lễ.
Đến ngày 22-3 t́nh h́nh tiếp
liệu thiếu hụt, binh sĩ ngoài tiền tuyến quá mệt mỏi trước áp lực địch,
tỉnh đă tính chuyện di tản mặc dù chưa có lệnh của Quân đoàn. Sáng 22-3
Đại tá tỉnh trưởng Quảng Đức lấy tiền trong ngân khố đem lên trực thăng
đưa về Sài g̣n rồi quay trở lại, ông ghé Lâm đồng nghỉ ngơi xong lên máy
bay trở về Quảng Đức nhưng trực thăng bị hỏng không quay trở về được, đó
là theo lời ông ấy nói. Đến chiều Trung tá tiểu khu phó bèn cho lệnh tỉnh
di tản, hai Tiểu đoàn BĐQ tại Kiến đức gọi về tỉnh xin lệnh nhưng thấy các
quan đă triệt thoái nên anh em cũng lui binh trong trật tự, họ đă gài ḿn
trên đường về thị xă rồi rút theo đoàn quân của tỉnh.
Về điểm này trong Cuộc Triệt
Thoái Cao Nguyên 1975 của Phạm Huấn nói sai hoàn toàn. Trang 170: “Đại tá
Ngh́n, Tỉnh trưởng Quảng Đức liên lạc về khẩn báo: Quận Kiến đức mất. Quận
Gia Nghĩa đang bị pháo nặng. Cộng quân từ An Lộc kéo về đă tiến sát Phi
trường Quảng Đức”. Trang 171: “Hầm chỉ huy và hệ thống liên lạc của Tỉnh
trưởng Quảng Đức bị pháo sập. Đại tá Tỉnh trưởng chỉ huy lực lượng c̣n lại
của Tiểu khu, mở đướng máu rút về hướng Lâm đồng”.
Không biết Phạm Huấn căn cứ
vào tài liệu nào nhưng chúng tôi là nhân chứng từ đầu chí cuối tại đây
đă biết rơ sự việc. Hoàn toàn không có chuyện quận Kiến đức mất, thị xă
Gia Nghĩa không hề bị pháo, địch c̣n bị cầm chân tại Kiến đức cách thị xă
khoảng 15 km. Tỉnh trưởng vẫn ở tư dinh cho đến ngày di tản, hoàn toàn
không có chuyện pháo sập hầm, ông tỉnh trưởng đă đi máy bay trực thăng từ
sáng hoàn toàn không có chuyện mở đường máu rút về Lâm đồng.
Đoàn quân triệt thoái từ
Quảng Đức sau 5 ngày băng rừng th́ tới Lâm Đồng ngày 27-3, tổng cộng
khoảng sáu, bẩy ngh́n người gồm Địa phương quân, Biệt động quân, Cảnh
sát.. và một số ít dân chúng vượt sông Kinh Đà qua được Lâm Đồng, đa số
dân chúng bị bỏ lại v́ không thể đem theo hết mọi người được. Cuộc di tản
tốt đẹp, hiền lành, rất kỷ luật hoàn toàn không sẩy ra lộn sộn nào đáng
tiếc.
Ngày 27-3 đoàn quân di tản
từ Quảng đức tới được Lâm đồng nhưng thật không may, ngày họ tới nơi cũng
là lúc Lâm Đồng bắt đầu di tản về Phan Rang trước sự ngạc nhiên của tất cả
mọi người. Từ hai ngày trước Sư đoàn 7 CSBV thuộc quân đoàn 4, dưới quyền
điều động của Trần Văn Trà chiếm Định Quán, Hoài Đức, Giá Rai .. rồi
tiến quân đánh tỉnh Lâm Đồng. Họ tiến theo đội h́nh xe tăng đi đầu rồi bộ
binh, pháo binh, hậu cần theo sau tiến theo đường 20 gặp đồn đánh đồn, gặp
bót đánh bót. Tỉnh trưởng Lâm Đồng bỏ trốn từ hai giờ sáng, lấy tiền trong
ngân khố chạy lên Đà Lạt bằng xe díp, sự thực không riêng ǵ Lâm Đồng,
Quảng Đức mà tại cả hai Quân khu 1 và 2, nhiều đơn vị trưởng, nhiều sĩ
quan cao cấp thấy t́nh h́nh bi đát đă bỏ đơn vị chạy tháo thân, tâm lư
chung con người ta ai mà không sợ chết. Cuộc di tản tại Lâm Đồng về Phan
Rang được tiến hành có trật tự, không sẩy ra hỗn loạn như cảnh triệt thoái
trên đường số 7B có lẽ v́ không bị Cộng quân đuổi theo pháo kích.
Trong khi ấy hai Trung đoàn
Việt Cộng băng rừng từ Phước Long qua tiến chiếm quận Di Linh, chiều tối
hôm ấy, pháo binh thuộc địa phận Đà Lạt bắn thả dàn vào Di Linh đang nằm
trong tay Cộng quân. Hai hôm sau Đà Lạt cũng di tản về Phan Rang.
Dưới đây là những ngày cuối
cùng của Quân đoàn 2, chúng tôi dựa theo tài liệu của ông Cao Văn Viên.
Vùng Cao nguyên mất, chủ lực
Quân đoàn bị thiệt hại gần hết nhưng ở duyên hải Sư đoàn 22 bộ binh vẫn
giữ vững pḥng tuyến ở B́nh Khê trên Quốc lộ 19, ở Tam Quan Bắc B́nh Định,
hai Trung đoàn 41, 42 thuộc Sư đoàn 22 chống trả mănh liệt cuộc tấn công
của Sư đoàn 3 CS dưới chân đồi B́nh Khê phía Tây Qui Nhơn. Hai bên giằng
co nhau từng ngọn đồi, Cộng quân bị thiệt hại nhiều trong trận đánh. Trung
đoàn 95B, Sư đoàn 968 BV được tăng cường tấn công hai Trung đoàn 41, 42
nhưng ta vẫn giữ được pḥng tuyến cho đến 30-3.
Ở duyên hải, BV tăng viện
thêm từ Quảng Ngăi đánh Tam Quan, Bồng Sơn ngày 25-3, Trung đoàn 47 sau 3
ngày chiến đấu rút về căn cứ không quân Phù Cát lập pḥng tuyến mới ở đó.
Sư đoàn 320 BV sau khi đánh phá đoàn di tản trên tỉnh lộ 7B xong nhiệm vụ
tiến về Tuy Hoà. Sư đoàn 10 cùng với xe tăng, đại bác từ Phước An theo
đường 21 tiến về Khánh Dương ngày 27-3 để tấn công Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù. Đặc
công, thám sát VC xâm nhập Qui Nhơn đóng chốt, cắt đường giao thông, ĐPQ
của ta bây giờ biến mất hết. Sư đoàn 22 được lệnh rút về Qui Nhơn.
Ngày 30-3 Trung đoàn 41 và
42 được lệnh rút khỏi mặt trận B́nh Khê, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42,
Trung tá Nguyễn Hữu Thống đă năn nỉ xin tư lệnh ở lại đánh, ông nói t́nh
h́nh chưa đến nỗi, nếu rút đi sau này khó đem quân trở lại. Nhưng đă quá
trễ, khi hai Trung đoàn vào thị xă Qui Nhơn, họ bị các chốt địch bên trong
thị xă chận đánh, ĐPQ miền Nam đă di tản, Qui nhơn đă nằm trong tay Sư
đoàn 3 CS. Sau 3 ngày chiến đấu cộng với hải pháo yểm trợ, Trung đoàn 41,
42 phá được pḥng tuyến Việt Cộng ở Nam thành phố. Quân của hai Trung đoàn
41, 42 thuộc Sư đoàn 22 tập trung một địa điểm phía Nam cách bến tầu 6 cây
số chờ di tản. Hai giờ sáng 1-4 ba tầu hải quân cập bến chở đám binh sĩ
c̣n lại của Sư đoàn, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42, Trung tá Nguyễn hữu
Thông từ chối di tản và ở lại tự sát.
Trung đoàn 47 sau hai ngày cố
thủ bị đánh bật ra khỏi phi trường Phù Cát, trên đường di tản về Qui Nhơn
Trung đoàn bị phục kích tại quận lỵ, Tiểu đoàn trưởng ĐPQ tự tử, xác c̣n
nằm trước văn pḥng quận. Trung đoàn 47 mất đi hơn nửa quân số coi như bị
loại khỏi ṿng chiến, Đại tá Lê Cầu, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 47 cũng
tự sát. Sư đoàn 22 khi được tầu chở về Vũng Tầu chỉ c̣n hơn 2,000 quân.
Sáng 2-4 Cộng quân chiếm Tuy
Hoà, ĐPQ rút về Nha Trang, tại đèo Cả phía Nam Phú Yên tiểu đoàn BĐQ 34 bị
thất thủ sau hai ngày cầm cự. Tại Khánh Dương Sư đoàn 10 Việt Cộng và Lữ
đoàn 3 Dù giao tranh dữ dội ngày 27-3, Việt Cộng được pháo binh, xe tăng
yểm trợ đă phá được pḥng tuyến VNCH. Tiếp viện cho Lữ đoàn Dù bị chận
đánh, lính Dù giữ được Khánh Dương một tuần th́ thất thủ ngày 2-4, Lữ đoàn
tan ră trước áp lực quá mạnh của BV chỉ c̣n hơn 300 lính chạy về Nha
Trang. Việt Cộng chiếm trung tâm huấn luyện Dục Mỹ, Ninh Hoà.
Nha Trang đă trở thành vô
chính phủ như nhiều thành phố khác, tù quân lao phá ngục trốn ra lấy súng
của đám tàn quân bỏ chạy bắn loạn xạ, cướp bóc dữ dội như thời thượng cổ.
Trưa 2-4 Trung tướng Phạm Quốc Thuần chỉ huy trưởng Trung tâm Dục Mỹ đến
Bộ tư lệnh Quân đoàn gặp Tướng Phú hai người bàn bạc với nhau chừng 15
phút rồi cùng đi tới phi trường Nha Trang. Tướng Phú lên trực thăng bay đi
t́m các đơn vị, đến chiều trở lại Nha Trang ông báo cáo cho Bộ Tổng tham
mưu biết không liên lạc được với đơn vị nào. Bộ Tổng tham mưu ra lệnh cho
ông phối hợp Hải, Không quân để tổ chức pḥng thủ phi trường Nha Trang.
Nửa tiếng sau Tướng Phú bay
khỏi Nha Trang, ông không nói ǵ với Ban Tham mưu Quân đoàn hay bàn thảo
kế hoạch ǵ cả, quá tuyệt vọng ông bèn bay về Sài G̣n nhập bệnh viện Cộng
Hoà ngày 4-4. Tướng Phú không c̣n tinh thần để chỉ huy vả lại Quân đoàn 2
của ông cũng chẳng c̣n ǵ cả. Khi ấy Ban Tham mưu Quân đoàn 2 bèn quyết
định di tản khỏi Nha Trang. Từ 27, 28-3 các đơn vị của Lâm Đồng, Tuyên Đức
rút về Phan Rang để tháo chạy về miền Nam.
Làn sóng tỵ nạn miền Trung từ
Quân khu 1, và phía Bắc Quân khu 2 đổ về Phan Rang khiến cho cả tỉnh hốt
hoảng nhập bọn chạy về phía Nam. Địa phương quân, cảnh sát, công chức
Phan Rang… nhiều người bỏ đơn vị để chạy loạn. Tỉnh trưởng Đại Tá Trần Văn
Tư cho phá hủy máy móc và một số cơ sở quan trọng rồi rút về Phan Thiết.
Bộ Tổng tham mưu khi ấy bèn
lấy Phan Rang và Phan Thiết, hai tỉnh cuối cùng của Quân đoàn 2 đem sáp
nhập vào Quân khu 3 kể từ ngày 4-4-1975, Quân đoàn 3 cũng gửi Lữ đoàn 2
Nhẩy Dù ra tăng cường. Nha Kỹ Thuật, Pḥng 7 Bộ Tổng tham mưu gửi nhiều
toán thám sát vào hai vùng Đông Bắc và Tây Bắc Phan Rang để ḍ thám hoạt
động của Cộng quân. Bộ Tư lệnh tiền phương của Quân đoàn 3 do Trung Tướng
Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy đặt tại phi
trường Phan rang, Tỉnh trưởng Phan Rang được triệu hồi để tổ chức lại hành
chánh và pḥng thủ tỉnh. Trật tự được văn hồi, tại phía Tây Phan Thiết Sư
đoàn 7 Việt Cộng đang gây áp lực, toán thám sát cho biết địch tập trung 2
Sư đoàn 3 và 10 tại Cam Ranh cách Phan Rang 45 km.
Quân đoàn 3 lại cho rút Lữ
đoàn Dù về lại vùng 3 để pḥng thủ Quân khu, thay vào đó cho tăng cường
Phan Rang một Trung đoàn của Sư đoàn 22 mới trang bị, bổ sung, một Liên
đoàn Biệt động quân, một Tiểu đoàn thiết giáp. Cuộc thay đổi quân sắp hoàn
tất th́ ngày 4-4 Việt Cộng tấn công dữ dội, Tướng Nghi xin giữ lại một
tiểu đoàn Dù. Lực lượng Ninh Thuận, Phan Rang bây giờ gồm: một tiểu đoàn
Dù, một Trung đoàn bộ binh, một Liên đoàn BĐQ, 4 tiểu đoàn ĐPQ, một Chi
đoàn Thiết giáp M-113, Sư đoàn 6 Không quân, Hải quân gồm 2 khu trục hạm,
Duyên đoàn 27, một Giang pháo hạm, một Hải vận hạm và một số tầu yểm trợ.
Phan Rang phố xá vắng tanh,
dân chúng đă di tản về Phan Thiết. Ngày 14-4 Sư đoàn 3 và 10 Việt Cộng
tấn công tuyến pḥng thủ Phan Rang theo Quốc lộ 1 và 11 đánh vào phi
trường, tại đây tiểu đoàn Dù giao chiến với Cộng quân, địch chết bỏ xác
100 tên. Ngày 15-4-1975 Ông Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng đặc trách Quốc
pḥng và Tướng Toàn thị sát mặt trận. Bị quân trú pḥng đánh trả ác liệt
BV cho tăng thêm Sư đoàn 325 và nhiều xe tăng, đại bác tấn công phi trường
Phan Rang đến trưa th́ pḥng tuyến vỡ, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư
lệnh mặt trận, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang tư lệnh Sư đoàn 6 không quân,
Đại tá Nguyễn Thu Lương Lữ đoàn trưởng Dù được ghi nhận mất tích. Toàn
tỉnh Ninh Thuận mất ngày 16-4, hai hôm sau ngày 18-4 mất Phan Thiết, Quân
khu 2 hoàn toàn thất thủ.
Cuộc triệt thoái Cao nguyên
đă khiến cho Quân đoàn 2 mất gần hết chủ lực quân, chỉ c̣n Sư đoàn 22 tại
vùng duyên hải mặc dù chiến đấu rất anh dũng nhưng không thể chống lại 5
sư đoàn Cộng quân, cuối cùng toàn bộ Quân khu đă rơi vào tay Cộng Sản.
Nhiều người đổ choTướng Phú đă làm mất Ban Mê Thuột và sụp đổ Quân đoàn 2,
Phạm Huấn cho rằng ông chưa đủ khả năng nắm giữ một quân đoàn, có người
cho Tướng Phú đă vận động để được làm Tư lệnh Quân đoàn, một chức vụ
không tương xứng với tài thao lược của ông… Ngoài ra theo Phạm Huấn tại
Quân đoàn 2 có những tị hiềm cá nhân, ḱnh chống nhau giữa những phụ tá
của Tướng Phú, của những phe cánh trong quân đội và giữa Tướng Phú với
những ông Tướng văn pḥng ở Sài G̣n của Bộ Tổng Tham mưu. Quân đoàn 2 chia
rẽ nội bộ, Tướng Phú không được thuộc hạ ở Quân khu 2 nể trọng và có cảm
t́nh, ông lại không được Tướng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên nể nang,
thù trong giặc ngoài, tất cả cũng đă làm suy yếu phần nào nội bộ của phe
ta.
“V́ sự đố kỵ, bất măn, bất lực
và vô kỷ luật của cả những sĩ quan cao cấp và có trách nhiệm nhất đưa đến
sự thảm bại nặng nề trong cuộc rút quân khỏi Cao nguyên.
Phạm
Huấn (CTTCN, trang 125)
Sự thực Tướng Phú có một phần
trách nhiệm để mất Ban Mê Thụôt vào tay Cộng quân v́ ông đă mắc lừa kế
nghi binh của địch, nhưng sự sụp đổ Quân đoàn 2 như chúng ta đă thấy Tướng
Thiệu, Tổng Tư lệnh là người chịu trách nhiệm nhiều nhất v́ kế hoạch của
ông đă có nhiều lỗi lầm tai hại. Tướng Phú đă nh́n thấy cái nguy hại của
triệt thoái và đă xin ở lại tử thủ, ông sẵn sàng chết tại Pleiku để giữ
đất, nếu được yểm trợ về tiếp liệu ta có thể cầm cự cho tới mùa mưa, lúc
ấy hai bên không thể giao chiến được nữa nhưng ông Thiệu một mực bắt phải
lui binh
Theo dư luận chung các nhà
quân sự, chính khách cũng như giới truyền thông báo chí ai nấy đều kết án
ông Thiệu là người đă gây lên tấn thảm kịch đầy máu và nước mắt này, có
người nghi ngờ ông Thiệu đă nhận lệïnh của Mỹ giật sập miền Trung.
“Rơ ràng là lệnh giật sập
miền Trung là do từ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, có điều câu hỏi đặt ra ở
đây là Thiệu giật sập miền Trung là do nghe lệnh của Mỹ hay tự ư một ḿnh
hành động?
. . . . . . .
. . . .
“Trước khi vùng Một thất
thủ th́ ở vùng 2, toàn bộ quân đoàn 2 đóng tại Pleiku được lệnh di tản về
Tuy Hoà bằng liên tỉnh lộ số 7. Đại Tá Lê Khắc Lư, Tham mưu trưởng quân
đoàn 2, sau này ra Hải ngoại có lên một đài phát thanh và có kể chuyện lại
rằng, khi nhận được lệnh rút quân, một tướng lănh của Quân đoàn 2 là tướng
Cẩm đă nhận xét với ông “Thôi rồi bàn cờ đă sắp xếp xong, chẳng c̣n ǵ để
nói chuyện đánh đấm nữa” Một thiếu tá pháo binh bầy tỏ sự tức giận với
ông Lư “ Súng đạn c̣n đầy đủ, quân lính c̣n đông, sao lại bỏ chạy như thế
này”. Chuyện kể của Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 Lê Khắc Lư cho thấy khi
Quân đoàn 2 được lệnh rút từ Pleiku về Tuy Hoà th́ coi như số phận của
Quân đoàn 2 cũng được sắp xếp xong cho phù hợp với kế hoạch giật sập vùng
1 và vùng 2 của Sài G̣n”
Trần Việt Đại Hưng (Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam Năm
1975).
Những ư kiến trên đây chỉ là
giả thuyết.
Phạm Huấn cũng cho rằng các
Tướng lănh đạo Thiệu, Khiêm, Viên đă tỏ ra không có tinh thần trách nhiệm
can đảm, không dám đi tới tận mặt trận như các tướng ngoại quốc De Lattre,
Navarre đă xuống Vĩnh Yên, Hoà B́nh, Điệïn Biên Phủ hoặc như Westmoreland
lên Cao Nguyên khích lệ tinh thần binh sĩ, không ông tướng nào có được
hành động anh hùng mà chỉ ngồi văn pḥng ra lệnh. Các ông tướng Việt Nam
chỉ thích gửi con đi du học nước ngoài không có được tinh thần như De
Lattre đưa con trai ra mặt trận đóng tại Ninh B́nh, Đô đốc Sharps, tư lệnh
Thái B́nh Dương để con trai, một thiếu tá phi công tham gia chiến trận.
Nhà
báo, dân biểu Trần Văn Ân trong lời Bạt cho cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao
Nguyên Năm 1975 viết.
“Đây là cuốn sách đầu tiên đă
nói lên được cái thân phận vừa đau thương vừa hào hùng của người lính Cộng
Hoà thấp cổ bé họng, đă mô tả được những uất nghẹn của của người Sĩ quan
Việt Nam nh́n thấy thảm cảnh Quân đội tan hoang mà bó tay chịu chết, và
cũng đă phơi bầy được cái hậu trường tàn nhẫn, hèn nhát và bất nhân của
nhóm người lănh đạo Quốc Gia và chỉ huy Quân đội.

Ba ông tướng cao cấp khác, có
mặt tại Hội Nghị Cam Ranh cùng với ông Thiệu, đă hoàn toàn im lặng, không
góp bàn ǵ về cái quyết định giết người của ông Thiệu cả”
(CTTCN 1975, trang 265, 266)
Kế hoạch của ông Thiệu và tập
đoàn Tướng lănh đă bị chỉ trích gay gắt như sau:
“Người đọc cũng thấy rơ sự
tàn nhẫn, lạnh lùng của TổngThống Thiệu khi ban hành thứ mệnh lệnh tự sát
choTướng Phú, và thái độ im lặng giả dối, sống chết mặc bay của những
tướng hiện diện….
. . . . . .
. . . . . . . . .
Câu chuyện Phạm Huấn kể về cái
Hội Nghị Cam Ranh c̣n đặt ra một khía cạnh khác của nhân t́nh thế thái: đó
là khía cạnh đạo đức của mệnh lệnh. Trong suốt buổi họp từ ông Thiệu, ông
Khiêm tới ông Viên, Ông Quang, không một ai đề cập tới số phận của hằng
triệu dân, hàng trăm ngh́n Địa Phương Quân, Nghĩa Quân và gia đ́nh binh sĩ
sẽ bị bỏ rơi lại, và hàng chục ngàn xác chết Quân Dân chắc chắn sẽ đầy rẫy
dọc theo con đường tử lộ. Ông Thiệu phân tách t́nh h́nh rồi lạnh lùng chỉ
thị rút chủ lực quân thật nhanh, thật bí mật về miền Duyên Hải… Các Ông
Tướng khác giữ im lặng, thản nhiên như mọi việc đă được quyết định rồi và
không c̣n ǵ để bàn căi nữa”
Trần Văn Ân (CTTCN 1975 trang 267)
Những lời kết án của Trần
văn Ân , Trần Việt Đại Hưng, của Phạm Huấn… cũng như của bao nhiêu người
khác nữa thể hiện nỗi uất hận của quân dân đối với tập đoàn lănh đạo tham
ô và cái Hội Nghị Cam Ranh của họ.
“Lịch sử sẽ ghi những ǵ về
Hội Nghị Cam ranh và về các tướng lănh đạo của nền Đệ Nhị Cộng Hoà? Sử
liệu có lẽ sẽ cần năm ba chục năm để hoàn tất. Nhưng ngay bây giờ th́ sử
xanh đă truyền tụng quá nhiều. Sử xanh ghi rằng. “Hội Nghị Cam Ranh ngày
14.3.1975 và cuộc triệt thoái Cao nguyên ngày 17.3.1975 không phải là khởi
đầu sụp đổ của chế độ Đệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam. Hai biến cố này thực sự là
dứt điểm vụt tắt cuối cùng của cơn hấp hối đă dai dẳng nhiều năm của chế
độ dũng phu Nguyễn Văn Thiệu-Trần Thiện Khiêm trong đó một khối quân đội
gồm Đa Số Tướng lănh và quân sĩ tài giỏi, anh hùng đă bị lợi dụng, thao
túng và chết uổng bởi một nhóm nhỏ Tướng lănh cầm quyền tham ô, bất lực và
thiếu đạo đức, với sự tiếp tay của một thiểu số người vô tài bất hạnh; kể
cả một số khoa bảng thời cơ và bịp bợm.
Tiền bạc của nhân dân mà họ
mang ra ngoại quốc có thể giúp họ sống sung túc tới trăm tuổi là cùng.
Nhưng tội lỗi của những Tướng lănh đạo sẽ được lịch sử ghi rơ đời đời.
Lương tâm đui chột của họ có thể làm ngơ, nhưng lịch sử bao giờ cũng sáng
suốt và tiếng nói dân gian bao giờ cũng công b́nh.
Liệu rồi đây, khi họ nằm
xuống, những nấm mồ của họ có sẽ được chôn tại miền nắng ấm quê nhà hay sẽ
phải nằm cô đơn giữa một miền tuyết lạnh Mỹ Châu, Âu Châu? Liệu rồi đây
nhân dân có đủ khoan dung cho phép họ nằm cạnh những nấm mồ của các chiến
sĩ anh hùng đă chết trên chiến địa, đă tự sát khi bại trận hay đă chết
trong lao tù? Những anh hùng này đă hy sinh cho một chính nghĩa cao đẹp
nhưng bị chết uổng v́ một Lănh Đạo tồi tàn”
Trần Văn Ân (CTTCN trang 272).
Tướng Phú phải chịu trách
nhiệm phần nào trong cuộc hành quân phá sản và làm sụp đổ Quân đoàn. Là
người tự trọng ông đă can đảm tự xử lấy bản thân v́ đă không chu toàn
trách nhiệm. Kư giả Trần Văn Ân đă luận bàn về tư cách của người chiến sĩ
anh hùng thà chết vinh c̣n hơn sống nhục như sau.
“Tướng Phú đă nằm xuống. .
. . với đầy đủ khí tiết của một cấp chỉ huy đă dám tự xử ḿnh khi trách
nhiệm không hoàn tất.
Tại sao những Tướng lănh đạo
nền Đệ II Cộng Ḥa lại không thấy được tội lỗi của ḿnh và không dám tự
xử? Phải chăng đó là sự cách biệt giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân, giữa
người yêu nước thật sự và người làm chính trị v́ tham vọng cá nhân? Phải
chăng đó là sự cách biệt giữa Tướng tác chiến Phạm Văn Phú và các Tướng
chính trị Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm?
Ước mơ của tôi là một ngày
nào quê hương được giải phóng, tôi sẽ về lại Việt Nam thăm mộ Tướng Phú và
các chiến sĩ vô danh khác, thắp nén hương tưởng nhớ những anh hùng đă vị
quốc vong thân, và xám hối về những tội lỗi của ḿnh”
(CTTCN 1975 trang 273)
Trọng Đạt
Tài Liệu Tham Khảo
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt
Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh
Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975 Đại Nam
Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận
Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao
Nguyên 1975, Cali 1987.
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Toà
Bạch Ốc (Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam, 1945-1975) Tiếng Quê Hương
2006.
Trần Văn Nhật: Cuộc Chiến Dang Dở,
nhà xuất bản An Lộc 2003
Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo
Chạy, Hứa Chấn Minh , 2005.
Văn Tiến Dũng: Đại Thắng Mùa Xuân,
Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, in lần thứ tư, Hà Nội2003.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam
1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới, Texas, 1990.
The World Almanac Of The Viet Nam
War, John S. Bowman, General editor, A Bison-book 1985.
Stanley Karnov: Viet Nam, a history,
A Penguin Books, 1991.
Marilyn B. Young, John J.Fitzgerald,
A.Tom Grunfeld - The Viet Nam War, a history in documents, Oxfoord
University Press 2002.
Trần Việt Đại Hưng: Một Bí Ẩn Cần
Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam 1975, Sài G̣n Nhỏ Dallas 4-2002.
Trung Tướng Lữ Lan: Cuộc Chiến Ba
Mươi Năm Nh́n Lại Từ Đầu, Sài G̣n Nhỏ Dallas số 28-4-2006.
Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam,
Người Việt Dallas số ngày 21-6-2006, vô danh.
Hồ Đinh: Cơn Phẫn Nộ Cuối Cùng Của
Một Quân Đội Bị Phản Bội, Người Việt Dallas 23-12-2005.
Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Đội Việt
Nam Cộng Hoà, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas 26-4-2006.
Hồi Kư Của Trung Uư D, Những Ngày
Cuối Cùng Trên Liên Tỉnh Lộ 7B, Người Việt Dallas, ngày 25-3-2005.
Trần Gia Lương: Một Cái Nh́n Về Tướng
Phạm Văn Phú, Sài G̣n Nhỏ Dallas 2004.
Phạm Bá Hoa: Cuộc Rút Quân Trên Đường
Số 7, Người Việt Dallas 19-3-2004.
Tú Gàn: Trở Lại Trận Ban Mê Thuột,
Sài G̣n Nhỏ Dallas 4-2005.
Mường Giang: Tiểu Khu B́nh Thuận
VàTháng 4-1975 Đẫm Máu và Nước mắt, Sài G̣n Nhỏ Dallas 30-4-2005.