QUÂN KHU 4 TRONG
CHIẾN CUỘC NĂM 1972
nguyễn đức phương
Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư
lệnh quân đoàn IV và quân khu 4:
"Mặc dù cả hai phía đều bị
thiệt hại nặng nề, và tuy QLVNCH
tại căn cứ Kompong Trach phải
lui binh, địch quân đă phải gánh
chịu một thất bại to lớn"
(Lieutenant General Ngo Quang
Truong, The Easter Offensive of
1972, trang 144; U.S. Government
Printing Office, Washington,
D.C., 1980). |
Trung tướng Lê Đức Anh, Tư lệnh
quân khu 9: "Dịp này, trên
toàn địa bàn quân khu; ta tiêu
diệt nó cũng khá, mà ngược lại,
ta bị tổn thất, thiệt hại cũng
nhiều" (Về Cuộc Kháng Chiến
Chống Mỹ Cứu Nước, Hồi Ức, Đại
tướng Lê Đức Anh, Trên Chiến
Trường Đánh Cho Mỹ Cút, Đánh Cho
Ngụy Nhào, trang 225; nxb CTQG,
Hà Nội, 2005). |
LỜI NÓI ĐẦU
Chiến cuộc năm 1972 là trận chiến lớn nhất
trong chiến tranh quốc - cộng. Nhiều tài
liệu đă phân tích ba mũi tiến công chính của
CS tại Quảng Trị, Kon Tum và B́nh Long. Tuy
nhiên chiến sự tại vùng đồng bằng sông Cửu
Long cùng trong khoảng thời gian này, chưa
được ghi lại đầy đủ. Bài viết này dựa trên
20 trang trong quyển sách của Trung tướng
Ngô Quang Trưởng,
để từ đó bổ túc những chi tiết c̣n thiếu sót
hay chưa ghi nhận được vào
khoảng cuối
thập niên 70 của thế kỷ 20; phân tích những
điểm sai lầm; tổng hợp và đối chiếu từ nhiều
nguồn tài liệu sau chiến tranh và nhất là từ
chính những cựu sĩ quan QLVNCH đă trực tiếp
tham chiến. Đây chính là những nguồn tài
liệu chính xác và có giá trị nhất.
Chiến tranh được phân tích trên ba mức độ
của nghệ thuật quân sự qua bốn trận đánh
tiêu biểu. Những ưu và khuyết điểm của cả
hai phía được tŕnh bày theo nhận xét của
tác giả. QLVNCH, với khả năng thiện chiến,
ḷng dũng cảm đă biến những sai lầm trên hai
cấp độ chiến thuật và nghệ thuật chiến dịch
thành chiến thắng.
Trong ước vọng ghi lại và giữ ǵn những chi
tiết trung thực và chính xác cho cuộc chiến
vừa qua, tác giả xin chân thành cám ơn sự
giúp đỡ của các cựu sĩ quan QLVNCH gồm Trung
tá Ngô Đức Lâm, Trung tá Vương Văn Trổ,
Thiếu tá Nguyễn Văn Răng, Thiếu tá Trương
Văn Điền, Thiếu tá Trương Phước Hiệp và Đại
úy Phạm Văn Tiết. Bài viết này sẽ khó thành
h́nh như ngày hôm nay nếu không được sự
khuyến khích và giúp đỡ của tất cả quư vị.
Lieutenant
General Ngo Quang Truong, The Easter
Offensive of 1972, trang 137-156;
U.S. Government Printing Office,
Washington, D.C., 1980.
* * *
Năm
1972, quân đội CSBV đă ngang nhiên xé bỏ
hiệp định Genève, tung quân vượt vĩ tuyến 17
để xâm lăng VNCH. Cường độ khốc liệt của
chiến tranh khiến khoảng thời gian này
thường được gọi là mùa hè đỏ lửa năm 1972.
Tài liệu này cho thấy chiến trận tại quân
khu 4 của VNCH đă bắt đầu từ mùa xuân năm đó.
Hầu hết các tài liệu đều nhắc đến ba mũi
tiến quân chính nhưng cần phải phân biệt
rằng CS phát động đến 5 chiến dịch trong
cuộc tổng tấn công này-
:
-
Chiến dịch Bắc Tây Nguyên
(30/3-5/6/1972) là hướng phối hợp đầu
tiên, bắt đầu từ Tân Cảnh rồi Đắc Tô,
Kon Tum và Plei Ku.
-
Chiến dịch Nguyễn Huệ (1/4-19/1/1972) là
hướng phối hợp thứ nh́ với mục tiêu tiêu
diệt 3-4 chiến đoàn BB của QLVNCH, chiếm
hai tỉnh B́nh Long và Phước Long.
-
Chiến dịch Bắc B́nh Định (9/4-3/5/1972)
là hướng phối hợp thứ ba để chiếm tỉnh
B́nh Định.
-
Chiến dịch đồng bằng sông Cửu Long
(10/6-10/9/1972) là hướng phối hợp sau
cùng, đánh phá b́nh định trên địa bàn
các tỉnh Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong,
G̣ Công và Kiến Ḥa.
-
Chiến dịch Trị Thiên (30/3-27/6/1972) là
hướng tấn công chủ yếu, mục tiêu đánh
chiếm Quảng Trị rồi tiến về phía nam.
Chi tiết về các chiến dịch này đă được phân
tích ở một chỗ khác.
Giữa những chiến dịch này, c̣n có các chiến
dịch nhỏ hơn nhưng khá ác liệt, tuy nhiên
thường không được nhắc đến, một phần do tầm
mức to tát của ba chiến dịch xảy ra tại
Quảng Trị, Plei Ku và An Lộc đă che mờ; phần
khác do thiếu thông tin. Bởi những lư do vừa
kể, tài liệu này nhằm mục đích tổng hợp lại
những chi tiết xảy ra tại quân khu 4 của
VNCH từ cả hai phía QLVNCH và quân đội CSBV
để có thể có một cái nh́n bao quát và chính
xác hơn. Phần lớn dựa vào quyển sách của
Trung tướng Ngô Quang Trưởng, tuy nhiên nên
lưu ư trong phần nói về quân đoàn IV và quân
khu 4, quyển sách này chỉ có chi tiết và
tương đối chính xác đến khoảng cuối tháng
4/1972 khi ông ra nhận chức vụ Tư lệnh quân
đoàn I ngày 3/5/1972. Trong khi đó, các tài
liệu của CS thường mang tính cách tuyên
truyền nên chỉ được sử dụng để kiểm chứng vị
trí và thời gian cùng với ư đồ và những cấp
độ trong nghệ thuật quân sự. Những kết quả
được ghi lại gần như hoàn toàn không có được
độ tin cậy thông thường của sử liệu.
Cường độ chiến tranh tại quân khu 4 đôi khi
cũng mănh liệt đến nỗi có lúc quân đoàn IV/QLVNCH
phải sử dụng đến đơn vị trừ bị cuối cùng. Dĩ
nhiên, cả hai bên tham chiến đều phạm phải
lỗi lầm trong tác chiến nhưng QLVNCH, với
khả năng thiện chiến, ḷng dũng cảm đă biến
những sai lầm trên hai cấp độ chiến thuật và
nghệ thuật chiến dịch thành chiến thắng.
Năm 1972, trong khu vực này có bốn trận đánh
cần được ghi lại. Hai xảy ra trên đất Cao
Miên (Campuchia) và hai trong nội địa VN.
Trận có tầm vóc qui mô hơn cả là Kampông
Trach thuộc tỉnh Kampốt của Miên. Hai trận
đánh kế tiếp xảy ra khi VC tấn công nhà máy
xi-măng Hà Tiên tại Kiên Lương thuộc tỉnh
Kiên Giang và chi khu Tuyên B́nh, hay c̣n
gọi là trận Long Khốt
thuộc tỉnh Kiến Tường. Trận đánh sau cùng
xảy ra khi QLVNCH yểm trợ quân đội Quốc gia
Khmer (FANK)
giải tỏa thị trấn Kampông Trabek nằm trên
QL-1 từ Xoài Riêng đi bến phà Neak Luong
thuộc tỉnh Prey Veng của Miên. Bốn trận đánh
có liên quan với nhau trên b́nh diện chiến
dịch sẽ được phân tích theo thứ tự thời gian.
1. T̀NH H̀NH NỘI ĐỊA & NGOẠI BIÊN
Đầu năm 1972, tin tức t́nh báo ghi nhận sự
hiện diện của trung đoàn Z15
từ biên giới đă xâm nhập vào tỉnh Định Tường,
trung đoàn Đ2 tại Bạc Liêu và Định Tường 1
cũng hoạt động trong tỉnh Định Tường, trong
khi một đơn vị của trung đoàn Đ3 bị phát
giác từ Vĩnh Long đă di chuyển về mật khu
487 trong tỉnh Vĩnh B́nh.
Trong khi đó th́ liên đoàn 4 BĐQ chấm dứt
cuộc hành quân dài hai tháng chung quanh
Neak Luong ngày 31/1/1972 (địch : 128 chết,
67 bị bắt, 54 vũ khí cá nhân và 8 vũ khí
cộng đồng bị tịch thu; bạn : 9 tử trận và 55
người khác bị thương). QLVNCH lui binh khỏi
tỉnh Kampông Chàm khiến FANK cũng cho rút lữ
đoàn 22 ra khỏi Krek về đóng tại Neak Luong.
Tỉnh bị quân CS chiếm giữ từ đó cho đến khi
chiến tranh chấm dứt.
Ngày 4/1, lữ đoàn 4 KB chấm dứt cuộc hành
quân dài một tháng (địch : 54 chết, 42 bị
bắt, 22 vũ khí cá nhân và 1 vũ khí cộng đồng
bị tịch thu; bạn : 4 tử trận và 5 người khác
bị thương). Ngày 15/1, sư đoàn 7 BB chấm dứt
giai đoạn 1 của cuộc hành quân Cửu Long 7 (địch
: 111 chết, 34 bị bắt, 26 vũ khí cá nhân và
4 vũ khí cộng đồng bị tịch thu; bạn : 15 tử
trận và 126 người khác bị thương). Giai đoạn
2 tiếp tục ngay sau đó nhưng vùng hành quân
chuyển sang hai tỉnh Định Tường và Kiến Ḥa.
Ngày 7/1, liên đoàn 42 BĐQ chấm dứt cuộc
hành quân Cửu Long 44 dài tám ngày (địch: 26
chết, 21 bị bắt, 30 vũ khí các loại bị tịch
thu; bạn : vô sự). ĐPQ của quân khu 4 phát
động hành quân Đồng Khởi trên nhiều tỉnh
trong 4 ngày 13-15/1 với kết quả địch : 439
chết, 55 bị bắt, 239 vũ khí các loại bị tịch
thu; bạn : 61 tử trận và 295 người khác bị
thương.
Sau Tết và trong suốt tháng 3, VC chỉ có
những hoạt động lẻ tẻ, tấn công các đồn bót
hẽo lánh. QLVNCH mở cuộc hành quân Đồng Khởi
trong 3 ngày 7-9/2 với kết quả, địch : 225
chết, 41 bị bắt; bạn : 12 tử trận và 117
người khác bị thương. Thủy lôi được ghi nhận
được VC sử dụng lần đầu tiên tại Tân Châu,
gây hư hại nhẹ cho một tàu chở dầu lên Nam
Vang.
Nhân dịp Tết nguyên đán, chính phủ VNCH
tuyên bố ra lệnh ngừng bắn trong 24 giờ, bắt
đầu từ 18.00 giờ ngày 14/2/1972. VC tuyên bố
ngưng bắn trong 96 giờ, cùng ngày nhưng bắt
đầu từ 1 giờ sáng.
Ngày 9/3, QLVNCH tổ chức cuộc hành quân Toàn
Thắng 8 tại phía bắc tỉnh lỵ Xoài Riêng và
chấm dứt ngày 29/3 (địch : 764 chết, 29 bị
bắt, 1117 vũ khí cá nhân và 37 vũ khí cộng
đồng, 871 tấn gạo, 49 tấn muối, 73 ngàn mét
giây điện thoại và 21 ngàn lít xăng bị tịch
thu; bạn : 9 tử trận và 67 người khác bị
thương).
Ngày 20/3, VC pháo kích và tấn công tỉnh lỵ
Prey Veng và Neak Luong.
Khoảng giữa tháng 4, FANK tăng cường lực
lượng tại Neak Luong để cố gắng giải tỏa
QL-1 đi Kampông Trabek nhưng không thành
công.
Ngày 18/5, tin tức t́nh báo cho biết VC tập
trung tại Túc Mía (Tuk Meas)
phía bên kia biên giới Việt - Miên nên BTL
quân đoàn IV cho trực thăng vận hai tiểu
đoàn BĐQ vào hành quân tại Thất Sơn để ngăn
chận VC xâm nhập vào hai tỉnh Châu Đốc và
Kiên Giang. Ngày hôm sau thêm một tiểu đoàn
BĐQ và một chi đoàn thiết kỵ vào trận. Không
có đụng độ nào đáng kể do địch quân tránh
giao tranh.
Ngày 19/5, hai đại đội thuộc trung đoàn 52,
sư đoàn 1 tấn công Kiên Lương. QLVNCH sử
dụng một tiểu đoàn BĐQ, một thiết đoàn và ba
tiểu đoàn ĐPQ tái chiếm thị trấn ngày 24/5.
Hai ngày sau, QLVNCH mới chiếm lại được nhà
máy xi-măng. Ngày 27, khu vực chung quanh
mới hoàn toàn an ninh. T́nh h́nh chung tại
BK 44 tương đối yên tĩnh cho đến cuối tháng.
Trong khi đó, ba trung đoàn 18B, 95A và Đ1
uy hiếp Chương Thiện v́ trung đoàn 15 của sư
đoàn 9 BB đă di chuyển lên quân khu 3. Đến
cuối tháng 5, ĐPQ mới đẩy lui được địch quân.
Ngày 1/6, 8 phi vụ đánh vào khu Túc Mía do
tin tức t́nh báo cho biết có sự hiện diện
của quân CS trong vùng. BĐQ vào vùng hành
quân và chạm địch. Kết quả có 133 cán binh
VC bị thiệt mạng, lực lượng hành quân có 6
binh sĩ bị tử trận và 17 người khác bị
thương.
Sư đoàn 5 VC vừa được lệnh di chuyển xuống
vùng châu thổ sông Cửu Long th́ ngày 10/6,
QLVNCH đă bắt được tù binh và biết ngay tin
tức này. Ngày hôm sau, hai trung đoàn của sư
đoàn 5 VC tấn công chi khu Long Khốt. Thiếu
tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, vừa mới thay thế
Trung tướng Trưởng lập kế hoạch phản công.
Ông ra lệnh cho BTL sư đoàn 7 cùng với hai
trung đoàn lên hành quân vùng Chân Tượng
trong khi QLVNCH củng cố hệ thống pḥng thủ
tại Định Tường.
Chỉ mấy ngày sau, VC đánh chiếm Kampông
Trabek, tạo áp lực lên đoạn QL-1 của Miên từ
khu Mỏ Vẹt đi Neak Luong. Đến tháng 7 th́
chỉ Xoài Riêng và Neak Luong c̣n nằm trong
tay quân chính phủ (FANK). Một cuộc hành
quân do QLVNCH tổ chức để yểm trợ giải tỏa
khu vực này. Khoảng 22 ngày sau th́ QLVNCH
đă giải tỏa hoàn toàn QL-1 và trao lại cho
FANK để rút về VN.
Cũng trong tháng 7, QLVNCH bắt đầu phản công
tại Quảng Trị.
Đầu tháng 7/1972, sư đoàn 7 tổ chức hai cuộc
hành quân. Một do trung đoàn 10 phụ trách,
được trực thăng vận lên hành quân dọc theo
QL-1 của Campuchia ngày 4/7. Trong khi đó,
hai tiểu đoàn BĐQ và một thiết đoàn KB phối
hợp với hai lữ đoàn quân đội Quốc gia Khmer
hành quân giải tỏa đoạn Neak Luong - Kampông
Trabek. Ngày 19/7, chi đoàn 3/2 thiết kỵ
cùng với một tiểu đoàn BĐQ tùng thiết theo
ngă Cái Cái tiến vào đất Campuchia đánh
thẳng vào Kampông Trabek. Thị trấn được giải
tỏa ngày 24/7. Lực lượng hành quân để lại
một tiểu đoàn BĐQ để yểm trợ FANK, tất cả
c̣n lại rút về VN v́ sư đoàn 5 VC đang gây
áp lực tại tỉnh Định Tường.
Trung đoàn 12 bắt đầu cuộc hành quân vùng
Chân Tượng ngày 3/7. Cuộc hành quân đụng độ
với trung đoàn 271 VC. Địch quân có 115 cán
binh bị hạ, lực lượng hành quân có 9 tử trận
và 46 người khác bị thương. Ngày 8/7, QLVNCH
tiến đến Kampông Rou. Ngày hôm sau, trung
đoàn 12 được lệnh rút trở lại VN v́ tỉnh
Định Tường đang bị áp lực của ba trung đoàn
Đồng Tháp 1, 215 và 218.
Ngày 8/7, trung đoàn 215 VC tấn công chi khu
Sầm Giang thuộc tỉnh Định Tường. Chiến trận
kéo dài được 5 ngày th́ BTL/QĐ 4 cho tăng
cường 4 tiểu đoàn ĐPQ và 1 tiểu đoàn BĐQ. VC
tiến gần đến chợ quận th́ QLVNCH với yểm trợ
của trực thăng Việt - Mỹ chận đứng. Ngày
10/7, lực lượng tăng viện đụng độ với VC.
Hai bên bị thiệt hại nặng. VC rút lui ngày
13/7. Ngày hôm sau, trung đoàn 10 thuộc sư
đoàn 7 BB truy kích đă hạ sát được 18 VC.
Trong khi đó, tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn
14, sư đoàn 9 BB bị trung đoàn 95A phục kích
tại Chương Thiện với thiệt hại nặng, 87 binh
sĩ bị tử thương, 102 bị thương và 106 mất
tích.
Ngày 18/7, hai tiểu đoàn 67 và 76 BĐQ bị
trung đoàn 275 VC tập kích với tổn thất 36
binh sĩ bị tử trận, 53 bị thương và 53 mất
tích.
Ngày 25/7, quân đoàn IV cho thành lập một
BTL Tiền phương để đối phó với t́nh trạng
gia tăng cường độ hoạt động của địch. Chuẩn
tướng Nguyễn Thanh Hoàng được chỉ định phụ
trách BTL/TP quân đoàn IV đặt tại căn cứ
Đồng Tâm với hai mục đích chủ yếu :
-
Điều động các hoạt động hành quân trong
vùng
-
Ngăn cản mọi hoạt động xâm nhập của VC
vào lănh thổ VNCH.
BTL này điều động sư đoàn 7 BB, một chiến
đoàn gồm 5 tiểu đoàn BĐQ, lực lượng diện địa
của tiểu khu Định Tường và trung đoàn 15
thuộc sư đoàn 9 BB tăng phái.
Ngày 27/7, một cuộc hành quân gồm nhiều tiểu
đoàn được tổ chức tại phía tây-bắc tỉnh Định
Tường. Phi cơ B-52 dội bom trong suốt hai
ngày 26-27 khiến trung đoàn 24 VC bị thiệt
hại nặng. Hai ngày sau, hai tiểu đoàn 43 và
44 BĐQ vào vùng hành quân đă đụng độ với
trung đoàn VC này. Trận đánh kéo dài ba ngày
với kết quả, địch có 100 người chết, bạn có
13 binh sĩ bị tử trận. Một cuộc chạm súng
thứ nh́ ngay sau đó khiến 23 cán binh CS bị
chết. Lực lượng hành quân c̣n t́m được 53
xác địch quân bị chết từ trước.
Hai
trung đoàn 1, 3 của sư đoàn 5
VC
cố
gắng xâm nhập vào hành lang dọc theo kinh
Nguyễn Văn Tiếp
(kinh Tháp Mười)
để tiếp cận hai tỉnh
Kiến Tường
và
Định Tường. Tư lệnh sư đoàn ra lệnh để lại
tất cả các trang bị nặng tại hậu cứ sư đoàn
ở Chí Phù để thích hợp với vận động chiến.
Không có đụng độ lớn cho đến
ngày
1/8,
hai
trung đoàn 1, 3 của sư đoàn 5 bất ngờ đánh
chiếm các đồn Thày Yên, chùa Phật Đá, kinh
Nguyễn Văn Tiếp và vùng Thiên Hộ.
Trong khi trung
đoàn 2 của sư đoàn
5
tiêu diệt lữ đoàn 66 của quân Lon-Nol
tại phum Krang Swai
gần Kampông Som.
Đầu tháng 8, BB và ĐPQ hành quân tảo thanh
mật khu Trí Pháp. Ngày 3/8, trung đoàn 12 hạ
sát 67 địch quân tại phía bắc Cai Lậy. Đêm
kế tiếp, một đơn vị thuộc sư đoàn 7 BB giết
110 VC thuộc trung đoàn 174, sư đoàn 5 tại
Kiến Tường.
Ngày 3/8, một tiểu đoàn ĐPQ tại Định Tường
báo cáo hạ sát 32 địch quân và khám phá một
hầm chôn 30 xác bị chết bởi bom. Cùng trong
ngày, trung đoàn 14 đụng độ với trung đoàn
Đồng Tháp 1. Địch bị hạ sát 18. bạn có 17 tử
trận và 58 bị thương. Trong hai ngày 4-5/8,
trung đoàn 12 hạ sát 170 VC của trung đoàn
24. Trong hai ngày 8-9/8, trung đoàn 14 đụng
độ với VC khiến 35 binh sĩ bị tử thương.
Thiệt hại của địch không rơ. Ngày 10/8, tỉnh
Định Tường ghi nhận giết được 128 địch quân,
tịch thu được 68 vũ khí cá nhân, 8 vũ khí
cộng đồng và 4 súng cối.
ĐPQ tỉnh Định Tường báo cáo có tất cả 71 lần
đụng độ trong ngày 24/8. Địch quân có 222 bị
chết, 75 vũ khí các loại bị tịch thu.
Ngày 25/8, hai đại đội thuộc trung đoàn Z15
ra ngăn chận QL-4 tại phía tây Cai Lậy, đụng
độ với một trung đoàn BB đang di chuyển hành
quân cùng với thiết đoàn KB. Trận tao ngộ
chiến kéo dài trong ba giờ. QLVNCH có 4 binh
sĩ bị thiệt mạng, 21 người bị thương, một
đại bác 105 ly bị phá hủy. Địch quân có 51
xác cán binh bỏ lại trận địa, hai tù binh bị
bắt.
Đến cuối tháng 8,
hai
trung đoàn 1 và 3 của sư đoàn 5 trở lại vùng
Sầm Giang, Cái Bè và Cai Lậy, đánh chiếm
các
đồn bót dọc kinh
Lagrange
và
QL-22,
phát triển theo
QL-4.
Thấy Mỹ Tho bị áp lực nặng
của VC,
QL-4
nối với Sài G̣n có thể bị cắt đứt,
Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh sư đoàn 7 BB
điều động 2 tiểu đoàn 502 và 503
ĐPQ,
tiểu đoàn 41
BĐQ
và thiết đoàn 12 tấn công giải tỏa khu vực
Thạnh Trị - Ba Thu - Tà Lu; đưa trung đoàn
10 của
sư
đoàn 7 phối hợp với 2 thiết đoàn càn quét
khu vực Cái Bè. Trung đoàn 1,
sư đoàn 5 bị thiệt hại nặng. Bùi Thanh Vân
(Út Liêm), Tư lệnh sư đoàn 5 bị
tử trận.
Trên chiến trường ngoại biên, tài liệu của
CS ghi nhận cuộc phản công hành quân Angkor
Chey của quân đội Lon Nol bắt đầu từ tháng 8
năm 1972. Lực lượng tham dự chỉ khoảng hai
trung đoàn (5 tiểu đoàn quân đội CSBV và 5
tiểu đoàn Khmer đỏ).
Thực tế là quân đội Quốc gia Khmer mở hai
cuộc hành quân vào đầu năm 1972. Đầu tiên là
hành quân Prekta, phối hợp với QLVNCH để
giải tỏa QL-1 của CPC.
Cuộc hành quân thứ nh́ là Angkor Chey khai
diễn ngày 29/1 để giải tỏa áp lực của quân
CS trong vùng Đế Thiên-Đế Thích (Angkor Wat).
Cuộc hành quân kéo dài đến ngày 21/2 th́ bị
quân CS chận đứng. Ngày 20/3, quân CSBV quay
sang tấn công tỉnh lỵ Prey Veng và căn cứ
Neak Luong đồng thời pháo kích Nam Vang.
Ngày 7/4, Khmer đỏ cắt đứt QL-7 nối Prey
Veng với Neak Luong. Năm tiểu đoàn FANK đang
được huấn luyện tại VNCH được tức tốc mang
về nước để giải tỏa áp lực địch dọc theo
QL-1 nhưng vẫn không khai thông được. Quân
CSBV vẫn c̣n chiếm giữ Kampông Trabek. Bên
phía đông, QLVNCH bắt đầu đụng độ với quân
CSBV gần Kampông Trach. Thị trấn được báo
cáo rơi vào tay quân CS ngày 30/4/1972. Giữa
tháng 5, FANK vẫn chưa chiếm được vùng Đế
Thiên - Đế Thích.
Ngày 4/7, FANK và QLVNCH khai diễn cuộc hành
quân Sorya I dọc theo QL-1 của CPC. Kampông
Trabek được tái chiếm khoảng gần cuối tháng.
Thiệt hại của trung đoàn 207 VC trong cuộc
hành quân này đă được một cán binh ghi lại
như sau
:
"Chiến dịch Sory [sic] 2 giải phóng thị xă
Kom Pong Trà Bét và trận đánh Phum chàm, hơn
100 cán bộ chiến sĩ của trung đoàn đă hy
sinh cũng đều mai táng rải rác trên cánh
đồng CPC và gần chùa Prây Rầm Long".
Sau đó, khi hai lữ đoàn 11 và 66 của FANK
chuẩn bị khai diễn cuộc hành quân Sorya II
th́ được tin cấp báo, VC lần đầu tiên sử
dụng các chiến xa ra ngăn chận QL-1, chia
cắt hai lữ đoàn của FANK.
Tài liệu của CS cho biết có đưa một tiểu
đoàn cơ giới chứ không phải là một tiểu đoàn
chiến xa lên tham dự các trận đánh trên đất
Miên. CĐT chi đoàn 3/2 phân tích sự kiện này
:
"Từ sau HĐ Paris cho đến hết năm 1974 tôi
hoạt động tại vùng này. Tin tức quân Bắc
Việt có chiến xa là không chính xác. Nó chỉ
cần đóng ván ép chung quanh vài chiếc máy
cày rồi nhá nhá ra cho khói bụi mịt mù, thế
là mấy đại đơn vị của Miên quăng súng mà
chạy ! Có một lần ngay cả BCH thiết đoàn của
tôi cũng bỏ chạy như thế. Hôm đó (đầu năm
1974) chúng tôi hoạt động ở khu tây-nam Svay
Rieng khoảng 10 km. Chi đoàn tôi đi sau cùng,
đến xế chiều đang nằm chờ lệnh rút trở về
nội địa th́ phi cơ L.19 báo h́nh như có
chiến xa của VC xuất hiện ở phía bắc. Thế là
BCH thiết đoàn bỏ chạy, nh́n thấy họ chạy
băng băng giữa đồng trống về hướng tôi, tôi
làm như không biết đó là thiết đoàn, điều
động chi đoàn dàn hàng ngang theo kiểu sẵn
sàng giao chiến. Thế là ThĐT lên tiếng bảo
đừng bắn nhầm, v́ đó là thiết đoàn !".
CĐT chi đoàn 1/16 cũng có cùng nhận xét
:
"Nhiều lần VC đánh lừa và định hù dọa bộ
binh của ḿnh trên đất Miên bằng cách dùng
khoảng 3 xe máy cày, ở trên đặt súng thượng
liên, phía sau cột mấy chà cây khô, kéo theo
tung bụi mù, chạy xa xa và bắn. Một lần tại
phía bắc Kompong Ru tôi cho 5 M.113 đưổi
theo bắn nát hai chiếc, chúng vác súng chạy
mất. Lần khác tại biên giới quận An Phú,
Châu Đốc, chúng cho một đàn trâu, phía sau
cột nhiều chà cây, xong chúng lùa đàn trâu
từ đất Miên về hướng vùng hành quân của ḿnh.
Bộ binh la hoảng là chiến xa địch tấn công.
Tôi cho đại bác 106 ly bắn vào, đàn trâu hốt
hoảng chạy ngược trở lại hướng VC".
Một sĩ quan thuộc tiểu đoàn 1/10, sư đoàn 7
BB đă ghi nhận tại mặt trận Kampông Rou trên
đất Campuchia
:
"Độ một giờ sau, tôi cùng thương binh, tử sĩ
được đưa ra băi trực thăng tản thương. Chúng
tôi đợi một hồi lâu mà trực thăng chưa đáp
xuống được v́ bị đạn địch pháo từ hướng Tây
về nổ rất gần. Bất chợt, L19 quan sát báo
cho biết thiết giáp của địch đang tiến về
hướng chúng tôi. Lúc đó, mạnh ai nấy chạy về
vị trí pḥng thủ đêm cách băi trực thăng tản
thương độ 200 thước bỏ lại thương binh trong
có cả tôi ở nơi băi bốc. Tôi lồm cồm ngồi
dậy, vớ một thân cây thay gậy chạy cà thọt
một cách rất khó khăn, cố gắng lắm mới lết
về đến vị trí pḥng thủ. Giây phút nặng nề
trôi qua, L19 tái xác nhận là địch dùng xe
ḅ ngụy trang thành thiết giáp để đánh lừa
chúng ta".
Một vài thông số có liên quan đến các loại
thiết giáp thông dụng trong chiến tranh Việt
Nam được so sánh trong Bảng 1 để nhận định
về khả năng VC có thể đưa thiết giáp xuống
gần biên giới Việt - Campuchia.
BẢNG 1 - THÔNG SỐ VỀ CÁC LOẠI THIẾT GIÁP
THÔNG DỤNG

Việc làm giả chiến xa để hù dọa QLVNCH có lẽ
từ ư nghĩ của các cấp chỉ huy địa phương của
VC hơn là chủ trương chính thức từ BTL Miền.
Quan sát các thiết đoàn KB tại quân khu 4
của VNCH hoàn toàn không có chiến xa th́ có
thể đoán biết lư do chiến xa không thích hợp
với vùng sông nước. Tháng 8/1966, Đại tướng
Johnson, TMT lục quân Mỹ chấp thuận một đề
án nghiên cứu do Thiếu tướng A L West, Jr.
phụ trách, có chủ đề là "Hành quân Tác chiến
bằng Cơ giới và Thiết giáp tại Việt Nam”,
viết tắt là MACOV.
Một trong những vấn đề được nghiên cứu là
thế đất của miền Nam VN. Sơ đồ 1-2 là kết
quả nghiên cứu cho thấy khoảng 61 % thế đất
có thể sử dụng chiến xa và các đơn vị yểm
trợ trong mùa khô. Trong mùa mưa, chiến xa
và các đơn vị yểm trợ chỉ có thể di chuyển
trên 46% lănh thổ miền Nam. Riêng thiết vận
xa th́ có thể di chuyển trên khoảng 65% lănh
thổ trong suốt năm. Nh́n Sơ đồ 1, người ta
có thể thấy ngay cả trong mùa khô, chiến xa
của CS nếu đưa được vào gần biên giới Việt -
Campuchia th́ vẫn không thể chạy qua vùng
biên giới. Bề ngang các cầu thông thường tại
đồng bằng sông Cửu Long đều hơn 4 m nên
không có vấn đề với thủy xa PT-76. Nếu TVX/M-113
qua cầu được th́ sẽ không có trở ngại về tải
trọng của cầu đối với PT-76 (xem áp lực mặt
đất trong Bảng 1 trên). Tháng 4/1975, trong
những trận đánh sau cùng của trung đoàn 12
thuộc sư đoàn 7 BB, nhiều thủy xa PT-76 bị
bắn hạ tại Long An cho thấy tin tức về sự
hiện diện thiết giáp của VC trong vùng biên
giới Việt - Campuchia là có căn cứ.
Ngày 6/7, lần đầu tiên một trực thăng của
không quân Campuchia bị hỏa tiển SA-7
bắn hạ (xem H́nh 1-2).
 |
H́nh
1: Hỏa tiễn pḥng không SA-7 |
 |
H́nh
2: Tác xạ Hỏa tiễn SA-7 |
Ngày 4/8, QLVNCH cho trực thăng vận một tiểu
đoàn BB xuống địa điểm cách Cái Cái 22 km về
phía đông-bắc đồng thời một tiểu đoàn khác
làm lực lượng tùng thiết cho một chi đoàn KB
tiến bằng đường bộ vào đất Campuchia. Ngày
hôm sau thêm một tiểu đoàn BĐQ được tăng
cường cho lực lượng hành quân. Chạm súng lẻ
tẻ với trung đoàn 207 được ghi nhận trong
hai ngày 5-6/8. VC có 52 cán binh bị bắn hạ.
Bản tin của hăng thông tấn AP cho biết ngày
6/8/1972, Bộ Tư lệnh Quân sự Mỹ thông báo
phi cơ Mỹ phá huỷ 9 chiến xa của CS cách
Kampông Trabek khoảng 4 dặm Anh về phía tây.
BTL quân đội Cộng ḥa Khmer cho biết không
quân của họ phá hủy 4 chiếc khác.
Ngày 10/8, trung đoàn 11 đụng độ với khoảng
một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 174 tại một
vị trí cách Mộc Hóa khoảng 15 cây số về phía
bắc. Địch quân có 222 người chết. Bạn có 15
binh sĩ bị tử trận.
Ngày 16/8, liên đoàn 7 BĐQ lên giải vây cho
căn cứ Kampông Trabek của Quân đội Cộng ḥa
Khmer. Ngày 23/8, QLVNCH bắt tay được với
lực lượng pḥng thủ và rút trở lại VN hai
ngày sau đó để có thể đưa liên đoàn BĐQ này
ra tăng cường cho quân khu 1 ngày 2/9/1972.
Trong hai tháng 9 và 10, các hoạt động hành
quân tại quân khu 4 tập trung vào ba mục
tiêu :
-
Ngăn chận sự xâm nhập của sư đoàn 1 vào
vùng Thất Sơn
-
Ngăn chận hai đường xâm nhập 1A và 1B
vào mật khu Trí Pháp
-
T́m và diệt các đơn vị chủ lực của VC
trong khu vực ở giữa và phía nam tỉnh
Định Tường.
Ngày 2/9, hai tiểu đoàn BĐQ cùng với hai chi
đoàn KB hành quân vào Thất Sơn. Ngày hôm sau,
một tiểu đoàn BĐQ thứ ba được trực thăng vận
thẳng vào vùng hành quân. BTL/BK 44 được di
chuyển đến Trung tâm Huấn luyện Chi Lăng để
điều khiển cuộc hành quân này. Cuộc hành
quân được khoảng một tháng nhưng chỉ có
những cuộc chạm súng lẻ tẻ. Trung đoàn 31
thuộc sư đoàn 21 BB được tăng phái cho BK 44
để kéo dài đồng thời mở rộng vùng hành quân
về phía tây từ ngày 22/9.
Ngày 8/9, quân CS chiếm lại Kampông Trabek
sau khi QLVNCH lui binh. Quân CS thừa thắng
tiến về hướng Nam Vang. FANK ngăn chận được
các đặc công CS nhưng bị mất 7 thiết vận xa
M-113.
Trong khi đó, sư đoàn 7 BB hành quân vùng
Chân Tượng trên phía bắc, khám phá được kho
chứa 125 tấn gạo và 215 vũ khí các loại
trong hai ngày 14-15/9.
Ngày 13/9, lực lượng diện địa của quân đoàn
IV báo cáo tiêu diệt được 116 địch quân
thuộc trung đoàn Z18 trong địa phận tỉnh
Định Tường.
Trên khu vực biên giới, tiểu đoàn 3/10 hạ
sát 109 địch quân ngày 6/10 tại một vị trí
nằm cách Kampông Trabek 13 km về phía
đông-nam. Tiểu đoàn có 2 binh sĩ bị tử trận
và 11 người bị thương. Năm ngày sau, cũng
đơn vị này giết được 59 VC trong khi có 9
binh sĩ bị tử trận và 48 người bị thương.
Tài liệu tịch thu được cho biết cả hai lần
đụng độ với trung đoàn 207 VC. Sư đoàn 7 BB
nâng lực lượng hành quân lên hai trung đoàn.
Ngày 17/10, trung đoàn 275 VC trở lại tấn
công chi khu Sầm Giang nhưng bị đẩy lui, bỏ
lại 34 xác. Lực lượng trú pḥng có 4 tử
thương và 32 bị thương.
Ngày 23/10, trung đoàn 11 đụng độ với một
đơn vị hậu cần và khám phá hầm chứa 300 cuốc,
1000 xẻng và 7 đại liên pḥng không. Địch có
42 cán binh bị chết. Bạn có 10 binh sĩ bị tử
trận và 35 thương binh.
Ngày 4/10, BĐQ Biên pḥng được phi cơ yểm
trợ đă hạ sát 54 VC trong một cuộc hành quân
tại Thất Sơn. Không có tổn thất được ghi
nhận về phía bạn.
Ngày 24/10, quân đoàn IV cho di chuyển lực
lượng từ khu vực Cái Cái xuống ranh giới hai
tỉnh Định Tường - G̣ Công để giải tỏa áp lực
của trung đoàn 24 VC. Hai tiểu đoàn BĐQ được
đưa đến phía tây-bắc tỉnh Kiên Giang để truy
t́m dấu vết của trung đoàn 52, sư đoàn 1.
Trong khi đó, trung đoàn 14 đụng độ với
trung đoàn 6, sư đoàn 5 VC khiến 32 binh sĩ
bị tử thương, 36 bị thương. VC có 57 cán
binh bị hạ. Ngày 30/10, một tiểu đoàn ĐPQ
giết được 48 VC của trung đoàn 6 nhưng chỉ
có 5 binh sĩ bị thương tại một địa điểm cách
Cai Lậy 14 km về phía tây-bắc.
Ḥa đàm Paris bị bế tắc từ trước được mở lại
ngày 19/6/1972. Đại diện của chính quyền Hà
Nội đưa ra đề nghị mới nhằm chấm dứt chiến
tranh. Phía Mỹ tuyên bố sẽ cố gắng đạt được
thỏa hiệp trước ngày 31/10/1972. Do đó, VC
gia tăng hoạt động trên khắp lănh thổ quân
khu 4 để chuẩn bị chiếm thời cơ khi cho rằng
hiệp định Paris sắp được kư kết. Tháng 10
năm 1972, Tư lệnh quân khu 9 của VC cho tập
trung 4 trung đoàn 1, 2, 10 và 20 về hoạt
động chung quanh tỉnh Chương Thiện. Chỉ để
lại trung đoàn 3 hoạt động tại khu vực
Vĩnh-Trà (hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh).
Sở chỉ huy quân khu trú tại phía tây-nam
Long Mỹ, di chuyển lưu động trên ba xă Lương
Tâm, Vĩnh Viễn và Xà Phiên thuộc quận Long
Mỹ, tỉnh Chương Thiện.
Bây giờ huyện Long Mỹ thuộc tỉnh Hậu Giang.
Chỉ có một trận đánh lớn được ghi nhận trong
khoảng thời gian này khi trung đoàn 14 (TrĐT
là Đại tá Lê Trung Thành) thuộc sư đoàn 9 BB
tiêu diệt một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 207
VC, bắt được 73 tù binh tại rạch Đá Biên,
quận Mộc Hóa, tỉnh Kiến Tường.
Trung đoàn 207 từ Mỏ Vẹt vượt sông Vàm Cỏ
Tây để xâm nhập vào lănh thổ VNCH. Khi qua
rạch Đá Biên th́ bị phát giác. Một cuộc oanh
tạc được thực hiện ngay sau đó. Tiểu đoàn 1
nằm lại chiến đấu để BCH trung đoàn và các
đơn vị c̣n lại rút lui nên đă bị tiêu diệt.
QLVNCH tổ chức hành quân trong vùng nên đến
12 ngày sau, trung đoàn 207 mới có thể cho
trinh sát trở lại t́m kiếm thương binh và
chôn cất các cán binh bị tử trận.
Một cán binh của trung đoàn 207 xác nhận chi
tiết của trận đánh này như sau
:
"Đặc biệt trận đánh 31/10/1972 tại cù lao
Long Khánh, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
Gần 400 cán bộ chiến sĩ của trung đoàn hy
sinh. Đại đa số đều bị chết ch́m dưới sông
Cửu Long, lúc vượt sông ban đêm. Khi xác anh
em nổi lên đă trôi dạt trăi dài từ Hồng Ngự,
dọc theo sông Tiền đi qua các vùng Thanh
B́nh, Chợ Mới, Cao Lănh, Sa Đéc, Tiền Giang,
Bến Tre và trôi ra biển. Nhân dân gặp xác
đâu đem lên chôn đó và chẳng biết gốc tích
là ai, riêng ở địa phận huyện Hồng Ngự th́
nhân dân biết là thân xác của bộ đội trung
đoàn 207, do vậy sau ḥa b́nh tỉnh Đồng Tháp
quy tập về các nghĩa trang Thường Thới Tiền,
nghĩa trang biên giới Tam Nông, đều ghi trên
mộ vỏn vẹn E207 không tên, không tuổi, không
quê quán".
Tổng thống VNCH đă dùng trực thăng đáp xuống
trận địa, gần Mỹ An để thị sát chiến trường.
Vị trí này nay tọa lạc tại ấp Đá Biên, xă
Thạnh Phước, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An.
Một tài liệu của VC bị tịch thu ngày
24/9/1972 tại B́nh Dương (tọa độ XT 787293)
cho thấy nghị quyết 13 của ủy ban thường vụ
Trung ương cục miền Nam ra lệnh đưa quân đội
CS vào chiếm giữ các vị trí trọng yếu, phá
hoại chương tŕnh b́nh định và kế hoạch
VNHCT, qua hai giai đoạn
:
-
Giai đoạn 1 kéo dài trong hai tháng
9-10/1972 nhằm giành dân, chiếm đất.
-
Giai đoạn 2 kéo dài trong hai tháng cuối
của năm 1972 là giai đoạn quyết định
cuộc chiến tranh một khi có thỏa thuận
ḥa b́nh (hiệp định Paris). VC dự trù
chính quyền ḥa hợp và ḥa giải dân tộc
chỉ hiện diện ở cấp trung ương mà thôi.
Sau khi ngừng bắn, cán bộ VC sẽ cất dấu
vũ khí và len lơi vào nắm các chức vụ
tại địa phương.
Tài liệu trên cũng cho biết người kư tên
trong tài liệu là Nguyễn Phú Quốc đă thay
thế Chín Vinh (Trần Độ) trong chức vụ chính
ủy quân giải phóng miền Nam.
Hiệp định Paris được kư kết ngày 27/1/1973.
2. DIỄN TIẾN
2.1. Phân bố lực lượng
2.1.1. QLVNCH
An ninh lănh thổ quân khu 4,
gồm 16 tỉnh của VNCH được phân chia trách
nhiệm cho 3 sư đoàn BB của quân đoàn IV.
Riêng đặc khu Phú Quốc do Bộ Tư lệnh Đặc
nhiệm Hải quân phụ trách, được tăng phái một
tiểu đoàn quân cảnh và một tiểu đoàn ĐPQ (xem
Sơ đồ 3).
Sư Đoàn 7 (gồm 3 trung đoàn 10, 11, 12 BB và
thiết đoàn
6 KB, xem H́nh 3-6) với BTL đặt tại căn cứ
Đồng Tâm, gần thị xă Mỹ Tho, chịu trách
nhiệm 4 tỉnh Kiến Phong, Kiến Tường, Định
Tường và G̣ Công. Khu vực này bao gồm hai
đường xâm nhập chủ yếu của VC từ lănh thổ
Miên vào VNCH. Đường 1A len theo ranh giới
giữa hai tỉnh Kiến Phong và Kiến Tường để
vào mật khu Trí Pháp, là khu vực giáp ranh
giữa ba tỉnh Kiến Phong, Kiến Tường và Định
Tường. Đường 1B phát xuất từ tỉnh Xoài Riêng
của Campuchia đi qua Đồng Tháp Mười, cũng để
xâm nhập vào mật khu Trí Pháp.
Sư Đoàn 9 (gồm 3 trung đoàn 14, 15, 16 BB và
thiết đoàn 2 KB) với BTL đặt tại Sa Đéc, sau
dời về Vĩnh Long, chịu trách nhiệm 4 tỉnh
Vĩnh Long, Sa Đéc, Vĩnh B́nh và Kiến Ḥa.
Sư Đoàn 21 (gồm 3 trung đoàn 31, 32, 33 BB
và thiết đoàn 9 KB) với BTL đóng tại Bạc
Liêu, chịu trách nhiệm 5 tỉnh Phong Dinh, Ba
Xuyên, Bạc Liêu, An Xuyên, Chương Thiện và
khu vực phía nam của tỉnh Kiên Giang, kể cả
tỉnh lỵ Rạch Giá.
Để giảm bớt trách nhiệm an ninh diện địa cho
ba sư đoàn chủ lực của QLVNCH hoạt động trên
lănh thổ của quân khu 4, Biệt khu 44 được
thành lập ngày 1/1/1968.
Biệt khu có trách nhiệm bảo vệ an ninh cho
khu vực biên giới Việt - Miên, kéo dài từ Hà
Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang đến khu vực Mỏ
Vẹt tiếp giáp biên giới hai tỉnh Kiến Tường
-
Hậu Nghĩa; bao gồm 3 tỉnh c̣n lại của quân
khu 4 là Kiến Tường, Kiến Phong, Châu Đốc.
BTL/BK 44 đặt tại thị xă Cao Lănh thuộc tỉnh
Kiến Phong, Vị trí lúc ban đầu chỉ có những
dăy nhà do quân đội Pháp để lại. Sau đó một
khu vực khang trang hơn được xây cất thêm,
làm nơi đồn trú cho BTL/BK, toán 50 cố vấn
thuộc BTL Viện trợ Quân sự Mỹ tại VN (MACV)
và một đơn vị thuộc tiểu đoàn 52 Truyền tin
của quân đội Mỹ. BCH của tiểu đoàn này đặt
tại Cần Thơ (xem H́nh 7-12).

Bộ Tư Lệnh Biệt Khu 44 lúc mới thành
lập
|

BTL/BK 44 dưới một góc nh́n khác
|

Bộ Tư Lệnh Biệt Khu 44
|
 |
|

Thiếu Tướng
Nguyễn
Vĩnh Nghi |

Huy Hiệu Biệt Khu 44 |
Lực lượng chiến đấu chính của Biệt Khu 44 là
một liên đoàn biệt động quân và 8 tiểu đoàn
BĐQ Biên Pḥng. Tài liệu của cố vấn trưởng
ghi nhận lúc cao điểm của mùa hè đỏ lửa, BK
44 chỉ huy 13 tiểu đoàn BĐQ, 4 thiết đoàn và
các đơn vị pháo binh tương đương với 4 tiểu
đoàn.
BK 44 giữ nhiệm vụ duy tŕ hai căn cứ tiền
phương trên đất Cam-Bốt là Neak Luong và
Kampông Trach, do các đơn vị BĐQ trấn giữ.
Neak Luong nằm trên quốc lộ 1 đi từ Nam Vang
đến thị trấn Bavet gần vùng biên giới Việt -
Miên. Bến phà Neak Luong ở phía tả ngạn của
sông Cửu Long và cách thủ đô Nam Vang khoảng
61 km về phía đông-nam. Căn cứ Kampông Trach
cách Hà Tiên khoảng 19 km về phía bắc.
Trong vùng lănh thổ trách nhiệm của BK 44 có
ba đường xâm nhập của CS từ đất Miên vào
lănh thổ VNCH. Đựng đầu tiên xâm nhập từ
ngoài biển vào gần Kép trên đất Miên rồi qua
ngă Lục Sơn vượt biên giới Việt - Miên vào
xóm Bà Lư. VC vào trú ẩn trong khu vực núi
Tà Bang, Giếng Tượng, núi Thom, Hoành Tấu,
Tà Hong ở phía tây Hà Tiên.
Đường thứ nh́ là đường giao thông công khai
do ban K26 phụ trách, cũng bắt đầu từ Sóc
Chuốt trên đất Miên hay từ Neak Luong xuống
Tân Châu, Hồng Ngự thuộc tỉnh Kiến Phong,
Vàm Xáng thuộc tỉnh Châu Đốc, rồi đi khắp
các tỉnh thành của quân khu 4 VNCH. Đây là
đường xâm nhập lâu đời nhất, có từ những năm
đầu tiên của Đệ Nhất Cộng Ḥa. Cán bộ giao
liên VC sử dụng giấy tờ giả mạo để đưa rước
cán bộ (được gọi là chỉ thị sống) cao cấp đi
họp, chuyển vùng, chuyên chở văn bản (chỉ
thị cứng), luật cơ yếu (mật mă truyền tin),
tiền bạc, súng đạn, xăng dầu, v.v. Hệ thống
giao thông công khai có tất cả 316 người
trong năm 1959, năm 1963 giảm c̣n 191 người.
Số cán bộ nhiều nhất là 377 người năm 1974.
Phương tiện giao thông gồm xuồng chèo, xuồng
máy, ghe buồm, xe, tàu đ̣. VC cũng gặp phải
những ngăn chận liên tục của VNCH mà điển
h́nh là một số vị trí xâm nhập trong địa
phận tỉnh Kiên Giang (tỉnh Rạch Giá của VC)
được đổi tên để nói lên những khó khăn, nguy
hiểm khi phải vượt qua như Biển Bạch (thuộc
quận Thới B́nh, tỉnh An Xuyên) là sông "Bạc
Đầu", sông "Lộ Cả Tháng" là sông Cái Lớn và
khu dinh điền Cái Sắn hay kinh Vĩnh Tế có
tên là kinh "Vĩnh Biệt".
Đường xâm nhập sau cùng, quan trọng nhất là
đường 1C từ Sóc Chuốt, Túc Mía trên đất Miên
vượt qua kinh Vĩnh Tế xuống rừng tràm Trà
Tiên, theo kinh Kháng Chiến trên ranh giới
giữa hai tỉnh Kiên Giang và Long Xuyên, đi
qua xă An Hoà, Dương Ḥa, Kiên Lương xuống
xă Đức Phương, Tín Đạo trên LTL-80, chạy dọc
theo kinh Hà Tiên - Rạch Giá. Vượt kinh Ba
Thê xuống xă Tà Keo, ấp Mỹ Lâm, vượt qua
LTL-8A Long Xuyên - Rạch Giá tại Ấp Tân Lợi,
xă Tân Hội, quận Kiên Tân cách Rạch Giá
khoảng 15 cây số (km15), sau đó vượt kinh
Rạch Sỏi - Hậu Giang, theo kinh B và kinh
Ông Trường Tiền, ranh giới thiên nhiên giữa
hai quận Thốt Nốt của tỉnh An Giang và quận
Kiên Tân của tỉnh Kiên Giang (dọc theo phía
đông của khu dinh điền Cái Sắn), đi ngang
qua xă Giục Tượng rồi theo kinh Nước Mặn
xuống Miệt Thứ,
Hiếu Lễ, Thúy Liễu thuộc tỉnh Chương Thiện.
Sau cùng qua sông Cái Lớn để đi xuống hậu
cần tại U Minh trong tỉnh Kiên Giang.
Đơn vị VC chủ yếu hoạt động trong vùng là sư
đoàn 1
với 3 trung đoàn BB. Trung đoàn 52 hiện diện
thường xuyên trên đường 1C trong khi hai
trung đoàn 44 và 101Đ hoạt động trong vùng
Thất Sơn của tỉnh Châu Đốc (xem Sơ đồ 4).
Để pḥng thủ quân khu 4, BTL quân đoàn IV
đặt ra 3 tuyến chính :
-
Tuyến biên giới với hai căn cứ Kampông
Trach và Neak Luong, chủ yếu đoạn từ Tân
Thành, Cái Cái, Tuyên B́nh, sông Vàm Cỏ
Tây đến căn cứ Tuyên Nhơn do Biệt Khu 44
phụ trách.
-
Tuyến kinh Dương Văn Dương (Găy, Kinh
Quận, Kiến B́nh), kinh Lagrange (Tuyên
Nhơn), kinh Tháp Mười (Mỹ An, Thiên Hộ,
Mỹ Phước Tây) và kinh Tổng đốc Lộc (Long
Định, chợ Thày Yên, Bến Tranh) do hai
trung đoàn 11 và 12 thuộc sư đoàn 7 BB
và các liên đội ĐPQ đảm trách. Nằm ở vị
trí trọng yếu để bảo vệ QL-4, lực lượng
diện địa của tỉnh Định Tường năm 1972
gồm có 67 đại đội ĐPQ, 368 trung đội
nghĩa quân và 397 NDTV, 8 trung đội pháo
binh 105 ly.
-
Tuyến QL-4 (Thẻ 23
thuộc chi khu Cái Bè, Cai Lậy, Long Định,
ngă ba Trung Lương, Mỹ Tho, Tân Hiệp) là
trách nhiệm của sư đoàn 7 BB và lữ đoàn
4 KB.
Gần cuối năm 1974, Bộ TTM đệ tŕnh kế hoạch
cải tổ binh chủng BĐQ để tổ chức lực lượng
tổng trừ bị cho QLVNCH, với viễn ảnh hai sư
đoàn Dù và TQLC có thể phải đóng quân lâu
dài tại quân khu 1. Do t́nh h́nh an ninh
vùng biên giới Việt - Miên trở nên khả quan
hơn, hai trung đoàn 52 BB và 44 đặc công bị
tổn thất nặng trong những trận đánh trong
vùng Thất Sơn nên đă bị giải tán. Trung đoàn
101Đ chỉ c̣n khoảng 200 cán binh nên phải
rút sang đất CPC vào tháng 9/1973 để tái
trang bị và bổ sung quân số. Do đó, CS phải
cho giải tán sư đoàn 1 vào cuối năm 1973.
T́nh trạng an ninh được cải tiến nên BK 44
được giải tán vào cuối năm 1974. Các tiểu
đoàn BĐQ trực thuộc được đưa sang các quân
khu khác.
2.1.2. Quân đội CSBV & Việt Cộng
2.1.2.1. Địa bàn chiến dịch
CS chia lănh thổ VNCH thành 4 vùng và gọi là
mặt trận. Mặt trận B1 thường được gọi là
quân khu 5 bao gồm 7 tỉnh Quảng Nam, Quảng
Tín, Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Bổn, Phú Yên
và Khánh Ḥa. Mặt trận B3 là vùng cao nguyên
Trung Phần gồm 3 tỉnh Kon Tum, Plei Ku và
Đắc Lắc. Mặt trận B4 hay mặt trận Trị Thiên
gồm hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Mặt
trận B2 bao gồm toàn bộ các tỉnh c̣n lại của
VNCH kéo dài từ Đà Lạt trên phía Bắc đến tận
An Xuyên ở phía Nam và hai đảo Côn Sơn, Phú
Quốc. Như vậy mặt trận B2 bao gồm một phần
lănh thổ của quân khu 2 và toàn thể lănh thổ
của hai quân khu 3 và 4 của VNCH. 3/4 chiều
dài biên giới Việt-Miên thuộc vùng trách
nhiệm của mặt trận B2.
Để thích ứng với cường độ chiến tranh, VC
lại chia mặt trận B2 thành bốn quân khu.
Quân khu 6 hay c̣n gọi là khu cực nam Trung
Bộ gồm lănh thổ 6 tỉnh của VNCH là Quảng Đức,
Tuyên Đức, Lâm Đồng, Ninh Thuận, B́nh Thuận
và B́nh Tuy. Quân khu 7 hay c̣n gọi là Khu 1
là miền Đông Nam Bộ gồm các tỉnh Phước Long,
B́nh Long, Tây Ninh, Long Khánh, B́nh Dương,
Hậu Nghĩa, Biên Ḥa và Phước Tuy. Quân khu 8
hay c̣n gọi là Khu 2 là vùng Trung Nam Bộ
gồm các tỉnh Long An, Kiến Tường, Kiến Phong,
Định Tường, G̣ Công và Kiến Ḥa. Quân khu 9
hay c̣n gọi là Khu 3 là vùng Tây Nam Bộ gồm
các tỉnh An Giang, Châu Đốc, Kiên Giang, Sa
Đéc, Vĩnh Long, Phong Dinh và An Xuyên.
Bài viết này chỉ chú trọng đến những ǵ xảy
ra tại quân khu 4 của VNCH nên chỉ đề cập
đến hai quân khu 8 và 9 của VC.
2.1.2.2. Các chiến dịch
Trước khi đề cập đến các trận đánh tại quân
khu 4 trong năm 1972, có lẽ nên liệt kê chi
tiết về các chiến dịch của quân CS trong
thời điểm này, để từ đó người ta có thể liên
kết được những sự kiện của các trận đánh với
nhau và những hệ lụy tiếp theo sau đó (xem
Bảng 2). Chi tiết Cửa Việt được ghi ở cuối
Bảng 2 để đánh dấu trận đánh cuối cùng được
CS cho là thời điểm chấm dứt cuộc TCK năm
1972 của họ.
Trong cuộc TCK năm 1972, ngoài những chiến
dịch chính, CS c̣n tung ra các chiến dịch
tiến công
tổng hợp để đánh phá kế hoạch b́nh định của
VNCH. Tại vùng đồng bằng sông Cửu Long có
chiến dịch chính là Nguyễn Huệ với trọng
điểm là QL-13. Chiến dịch tiến công
tổng hợp đánh phá các tỉnh thuộc hai quân
khu 8 và 9 của VC.
Chiến dịch Nguyễn Huệ bắt đầu từ đầu tháng
4/1972 với mục tiêu chủ yếu là đánh phá b́nh
định 4 tỉnh của miền đông là Tây Ninh, Phước
Long, B́nh Long và B́nh Dương. Hướng chính
là Lộc Ninh, An Lộc, QL-13. Hướng phụ là
QL-22. BTL Miền lập ra BCH Đoàn 301 tương
đương cấp quân đoàn để chỉ huy mặt trận này.
Bộ chỉ huy chiến dịch gồm có : Trung tướng
Trần Văn Trà là Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy;
Đại tá Đồng Văn Cống là Phó Tư lệnh; Đại tá
Trần Văn Phác là Phó Chính ủy; Đại tá Lê
Ngọc Hiền là Tham mưu trưởng; Đại tá Bùi
Phùng là Chủ nhiệm hậu cần.
Lực lượng tham dự gồm ba sư đoàn 5, 7, 9; ba
trung đoàn biệt lập 24, 205 và 271; ba trung
đoàn địa phương 14, 16 và 33; trung đoàn
4329 đặc công; trung đoàn 42 thuộc đoàn pháo
binh 75, hai tiểu đoàn xe tăng thiết giáp,
bốn tiểu đoàn cao xạ; 20 tiểu đoàn và 63 đại
đội địa phương của các tỉnh, huyện trong địa
bàn chiến dịch.
Các chiến dịch tổng hợp phức tạp hơn v́ do
BTL các quân khu phác thảo, điều động và tùy
thuộc vào sức mạnh của lực lượng địa phương
cũng như phản ứng của QLVNCH.
Tài liệu của CS sau chiến tranh cho thấy họ
không nắm vững chi tiết khi phân tích những
ǵ xảy ra trên địa bàn hai quân khu 8 & 9 (quân
khu 4 của VNCH) trong giai đoạn này. Một số
tài liệu cho rằng đây là chiến dịch Nguyễn
Huệ II như tài liệu được trích đoạn sau đây
:
“Chiến dịch Nguyễn Huệ II được tổ chức thành
nhiều cao điểm kéo dài từ tháng 4 đến tháng
6-1972. Địa bàn U Minh và Chương Thiện được
xác định là trọng điểm 1, Vĩnh Long và Trà
Vinh là trọng điểm 2 của chiến dịch. Ngoài
ra ở các tỉnh ta cũng xác định một số khu
vực trọng điểm mà những khu vực này có liên
quan trực tiếp đến trọng điểm chiến dịch như:
Giồng Riềng (Rạch Giá), Mỹ Xuyên (Sóc Trăng),
Long Mỹ (Cần Thơ). Mục tiêu chiến dịch được
xác định là giải phóng cơ bản U Minh, Cà
Mau, mở một số mảng ở Chương Thiện để làm
bàn đập tiến công phá thế b́nh định, ḱm kẹp
của địch; mở một số mảng ở vùng lúa Bạc Liêu,
Cần Thơ, tạo ra những cơ sở vững chắc để
phát triển tiến công và nổi dậy mở rộng
vùng giải phóng ở miền Tây Nam Bộ”.
Trong khi một số tài liệu khác lại gọi đây
là giai đoạn 100 ngày (7/4-17/7/1972) tiến
công và nổi dậy ở đồng bằng sông Cửu Long,
khi viết
:
"Từ đầu tháng 4 năm 1972, ḥa nhịp với cao
trào tiến công và nổi dậy của quân và dân
toàn miền Nam, quân và dân đồng bào sông Cửu
Long tiến công phá vỡ tuyến pḥng thủ của
địch ở vùng biên giới từ kênh Vĩnh Tế (Hà
Tiên) đến vùng Mỏ Vẹt (Kiến Tường), đánh bật
tuyến ngăn chận của chúng trong nội địa ở
vùng U Minh dài hơn 100 km, đồng thời chọc
thủng tuyến pḥng thủ nhiều tầng, nhiều lớp
ở vùng Đồng Tháp Mười. Quân và dân đồng bằng
sông Cửu Long đánh mạnh ở Cà Mau, Mỹ Tho,
Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà
Vinh, v.v.".
Để tránh những điểm không rơ ràng như vậy,
người ta có thể tập trung nghiên cứu những
hoạt động của từng quân khu 8 và 9 của VC.
(Xem
Các Chiến Dịch ở phần Phụ Lục cuối
trang)
(Xin bấm vào đây để xem tiếp)
D Andradé, Trial By Fire - The 1972
Easter Offensive, America's Last
Vietnam Battle; Hipocrene Books, New
York, 1995.
Đại tá, thạc sĩ Phạm Vĩnh Phúc &
nhiều người khác, Tóm Tắt Các Chiến
Dịch Trong Kháng Chiến Chống Mỹ, Cứu
Nước (1954-1975), trang 279-352; nxb
Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, 2001.
Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt
Nam Toàn Tập 1963-1975, trang
550-612; nxb Làng Văn, Canada, 2001.
Kampong hay Kampung là tiếng Mă Lai,
xuất hiện từ năm 1844 có nghĩa là
làng hay xă. Bang Selangor ở phía
tây Mă Lai hiện vẫn c̣n nhiều thị
trấn mang tên Kampung như Kampung
Jenderam, Kampung Lenang, Kampung
Sungai Buah, v.v. Trong chiến tranh
thường được viết là Kompong, có lẽ
do ảnh hưởng từ thời Pháp thuộc.
Địa danh Long Khốt bắt nguồn từ đoạn
thượng lưu của sông Vàm Cỏ Tây khi
chảy qua các quận của tỉnh Long An,
làm ranh giới thiên nhiên giữa hai
tỉnh Long An và Xoài Riêng (Svaay
Rieng), c̣n được gọi là sông Tam
Dưỡng, nếu phát âm theo tiếng Miên
là Long Khốt.
Cũng cần nên biết sơ qua về quân đội
Khmer, khi lănh đạo bởi Lon-Nol được
gọi là quân đội Quốc gia Khmer
(Forces Armées Nationales Khmères
hay FANK). Năm 1972, FANK có quân số
khoảng 200000 và được tổ chức thành
12 lữ đoàn mà phần lớn trú đóng tại
phía nam nước Campuchia (CPC). Không
quân có 154 phi cơ các loại trong
khi hải quân có 69 tàu và chiến đỉnh.
Yếu điểm lớn nhất của quân đội này
là sự bành trướng quá nhanh chóng từ
năm 1971, khi Thống chế Lon-Nol yêu
cầu Mỹ giúp đở kế hoạch gia tăng
quân số lên 600 000 quân và một lực
lượng bán vũ trang là 53 000 người.
Kết quả là có một khoảng cách quá to
tát giữa giấc mơ và hiện thực, thêm
vào đó là tệ nạn mà quân đội các
nước chậm tiến trong thời chiến
thường mắc phải, nạn lính kiểng,
lính ma và buôn bán quân dụng bất
hợp pháp (Lieutenant General Sak
Sutsakhan, The Khmer Rupublic at War
and the Final Collapse, trang 45-46;
U.S. Government Printing Office,
Washington, D.C., 20 Novem-ber
1978).
Năm 1970, lănh thổ Campuchia được
chia thành 6 quân khu và tăng lên 9
khi hiệp định Paris được kư kết. Mỗi
quân khu bao gồm địa phận từ 1 đến 5
tỉnh.
Để bảo vệ an ninh diện địa của ḿnh
và yêu cầu về chiến lược của Mỹ, hai
nước Thái Lan và VNCH đă giúp huấn
luyện các đơn vị FANK. QLVNCH c̣n
trực tiếp tham chiến khi t́nh h́nh
đ̣i hỏi, trên khắp vùng biên giới
Việt - Miên. Trong khi quân đội Thái
chiến đấu tại Long Chẹn, cánh đồng
Chum, Xiêng Khoảng của Lào.
T́nh báo Mỹ cho rằng trung đoàn Z15
đặc công chính là trung đoàn 88
(Intelligence & Security Division,
DCSOPS, Daily Intelligence Review,
17 April 1972; item No. 1070312021,
http:// www. virtual-archive.vietnam.ttu.edu
/starweb /virtual /vva /servlet.starweb,
24/2/2012).
General 1972-3 MAC-V CMD History
Part 2, trang 29; item No.
168300010829, http:// www.virtual
archive.vietnam.ttu.edu /starweb
/virtual /vva /servlet.starweb,
9/2/2012.
Lieutenant General Sak Sutsakhan,
The Khmer Rupublic at War and the
Final Collapse, tài liệu đă dẫn
trước, trang 101.
Touk Meas là một thị trấn của tỉnh
Kampôt trong khi Kampông Trach là
một quận của tỉnh Kampôt, nằm giáp
giới với VN, cách tỉnh lỵ Kampôt
khoảng 35 km về phía đông.
Lagrange là Chánh tham biện tỉnh Tân
An thời Pháp thuộc. Kinh nối liền Ấp
Bắc (bây giờ là thị trấn Tân Thành
của tỉnh Đồng Tháp) với chi khu
Tuyên Nhơn (ngày nay là thị trấn
Thạnh Hóa cũng thuộc tỉnh Đồng Tháp).
Cũng tương tự như quân CS tại miền
Nam VN, Khmer đỏ gọi lực lượng vũ
trang của họ là quân đội cách mạng (Kangtoap
Padevoat) hay quân giải phóng (Kang
kamlang avutpracheachon rumdos cheat
Kampuchea).
K Conboy & K Bowra, The War in
Cambodia 1970-1975, trang 7; Osprey
Publishing Ltd., UK, 1989.
W P Deac, Losing Ground to the Khmer
Rouge; Vietnam Magazine, December
1996.
Vũ Trung Kiên, Kư Ức và Cảm Nghĩ;
Bài Viết 25/12/2011, http://
www.e207.com.vn /index.php /bai-vit
/ngha-tinh-ng-i
/189-ky-c-va-cm-ngh.html, 13/4/2012.
Điện thư của cựu Thiếu tá Trương Văn
Điền gửi cho tác giả ngày 4/3/2012.
Điện thư của cựu Thiếu tá Nguyễn Văn
Răng gửi cho tác giả ngày 5/3/2012.
Lê Ngọc Danh, Trận Đánh Compongrou-Kampuchea
Của Tiểu Đoàn 1/10, trang 253;
Nguyễn Mạnh Trí tổng hợp, Nguyễn
Khoa Nam, Hội Phát Huy Văn Hóa Việt
Nam ấn hành, California, 2001.
General D A Starry, Mounted Combat
in Vietnam, trang 84-85; U.S.
Government Printing Office,
Washington, D.C., 1989.
Trần Văn Lưu, Trận Chiến Cuối Cùng
Của Quân Đoàn IV, trang 317; Nguyễn
Mạnh Trí tổng hợp, Nguyễn Khoa Nam,
Hội Phát Huy Văn Hóa Việt Nam ấn
hành, California, 2001.
SA-7 là loại hỏa tiển pḥng không
vác vai do Nga chế tạo năm 1964 và
đặt tên là 9K32 Strela-2 (Стрела
có nghĩa là mũi tên). Mỹ gọi là
SA-7, c̣n khối Minh ước Bắc Đại Tây
Dương (NATO) đặt tên là Grail. Quân
đội CSBV gọi là A-72. Hỏa tiển dài
1.4 m, đường kính 72 mm, nặng 9.9
kg. Tầm bắn của SA-7 từ 500 đến 1500
m. Cao độ từ 18 m đến 4 500 m. Vận
tốc bay là 430 m/giây. Áp dụng
nguyên lư đầu ḍ tầm nhiệt, SA-7 bám
theo luồng khí xả của động cơ máy
bay hoặc sức nóng của động cơ trực
thăng mà bám vào để nổ tung phá hủy
mục tiêu. Biến dạng đầu tiên Mod 0
không có bộ phận lọc nhiệt để phân
biệt giữa nguồn nhiệt thật và giả (bẫy
nhiệt) do đó hỏa tiển không thể tác
xạ mục tiêu cách khoảng mặt trời
20º. Cũng không thể tác xạ khi mục
tiêu có góc độ nhỏ hơn 5º. Năm 1971,
Nga cho ra đời biến dạng Strela-2M (Mỹ
gọi là SA-7b trong khi khối NATO đặt
tên là Grail Mod 1) với bộ phận lọc
nhiệt và cải tiến đầu đạn để kiểm
soát đồng bộ các mảnh đạn sau khi nổ.
Năm 1974, quân đội Nga được trang bị
hỏa tiển 9K34 Strela-3 mà NATO gọi
là SA-14 Gremlin. Hỏa tiển có hai
đặc tính để cải tiến khả năng của
loại Strela-2. Sử dụng đầu ḍ hồng
ngoại tuyến để chống các bẫy nhiệt
hiệu quả hơn. Quan trọng nhất là hỏa
tiển có thêm b́nh khí nén nitrogen
với công dụng t́m các mục tiêu nguội
(không quá nóng) ở tầm xa hơn và có
vận tốc nhanh.
South Vietnamese Retake 5 Hamlets;
The Daily Register, Monmouth County,
New Jersey, 7 August 1972.
Về Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu
Nước, Hồi Ức, Đại tướng Lê Đức Anh,
Trên Chiến trường Đánh Cho Mỹ Cút,
Đánh Cho Ngụy Nhào, trang 239; nxb
CTQG, Hà Nội, 2005.
Lieutenant General Ngo Quang Truong,
The Easter Offensive of 1972, tài
liệu đă dẫn trước, trang 153.
Vũ Trung Kiên, Kư Ức và Cảm Nghĩ;
Bài Viết 25/12/2011, tài liệu đă dẫn
trước.
Nguyễn Phùng, Đôi Ḍng Tiểu Sử;
http:// sd9bb.tripod.com, 20/4/2012.
Nguyễn Hoài Nam, Miếu Bắc Bỏ và
Những Ông Thành Hoàng Đội Mũ Cối;
http:// e24.com.vn, 20/4/2012.
Vị trí nằm giữa QL-13 và TL-2A, cách
Bến Cát khoảng 7 km về phía đông-nam.
Bulletin No. 50, Captured Enemy
Documents, 5 October 1972, Subject:
Directive 13 Originated by COSVN and
Vietcong Preparation for the Postwar
Period; item No. 11271628046,
http:// www.
virtualarchive.vietnam.ttu.edu /starweb
/virtual /vva /servlet.starweb,
11/2/2012.
Có lẽ phó chính ủy th́ đúng hơn v́
Lê Văn Tưởng (Hai Chân) thay Trần Độ
đang giữ chức Phó Chính ủy BCH Miền
khoảng năm 1974 (Về Cuộc Kháng Chiến
Chống Mỹ Cứu Nước, Hồi Ức, Đại tướng
Lê Đức Anh, Trên Chiến Trường Đánh
Cho Mỹ Cút, Đánh Cho Ngụy Nhào, tài
liệu đă dẫn trước, trang 249).
Theo sắc lệnh số 614b-TT/SL ngày
1/7/1970, các vùng và khu chiến
thuật được băi bỏ. Hệ thống quân khu
được tái lập.
Một thiết đoàn gồm có BCH thiết đoàn
và 3 chi đoàn thiết kỵ. Ngoài 3 chi
đoàn cơ hữu, BCH thiết đoàn c̣n có :
·
4
thiết vận xa (TVX) thuộc BCH/ThĐ
· 2 TVX
chỉ huy M-577
·
1 TVX/M-578
trang bị cần trục
·
1 chi
đội yểm trợ với 4 TVX/M-106 trang bị
súng cối 4.2 (107 ly) M30
· 1 chi
đội xe phun lửa với 3 TVX/M-132.
Mỗi chi đoàn thiết kỵ (chi đoàn TVX/M-113)
gồm có 22 xe được tổ chức như sau :
· 2 TVX/M-113
chỉ huy của chi đoàn trưởng và chi
đoàn phó
· 3 chi
đội thiết kỵ, mỗi chi đội có 5 TVX/M-113
· 1 chi
đội yểm trợ gồm có 3 TVX/M-125 trang
bị súng cối 81 ly và 2 TVX/M-113 có
gắn đại bác 106 ly không giật.
Mỗi TVX/M-113 được trang bị 1 đại
liên .50 và 1 hoặc 2 đại liên .30
hay đại liên 7.62 ly M60, được gắn
bên hông xe.
44th Special Tactical Zone HQ MACV
Advisory Team 50 - Crum Compound Cao
Lanh - Kien Phong Province - IV CTZ;
http:// www.gingerb.com /vietnam_cao_lanh.htm,
8/1/2012 & Major Philip D. Cane,
Project Checo Southeast Asia Report,
IV DASC Operation (U), 1965-1969,
trang 8; Department of the Air
Force, Headquarters Pacific Air
Forces, Checo Division, Hickam AFB,
HI, 1 August 1969.
Ngày 22/9/1972, khu vực trách nhiệm
của BK 44 mới được mở rộng để bao
gồm thêm tỉnh Châu Đốc, Hà Tiên và
chi khu Kiên Lương của tỉnh Kiên
Giang (U.S. Naval Forces, Quarterly
Historical Summary for July -
September 1972, trang 18).
Senior Officer Debriefing Report:
Col. Edwin W. Chamberlain Jr.,
Senior Advisor, 44th Special
Tactical Zone 5 July 1972 - 28
January 1973, Department of the
Army, Office of the Adjutant
General, Washington, D.C., 10 May
1973.
Điện thoại viễn liên với cựu Thiếu
tá Trương Phước Hiệp ngày 25/3/2012.
Trầm Phúc Xinh & Nguyễn Bá, Mạch
Ngầm, trang 27 & 100; Câu lạc bộ
những người kháng chiến tỉnh Kiên
Giang xuất bản, 1999.
Miệt Thứ chỉ khu vực nằm dọc theo
kinh Xáng, thuộc quận Kiên An, tỉnh
An Xuyên (bây giờ là tỉnh Cà Mau),
chiều dài khoảng 30 km, cách bờ vịnh
Thái Lan 15 km. Sông Cái Lớn chảy ra
vịnh Rạch Giá, khi c̣n cách vàm sông
khoảng 8 km có kinh Xáng bên tả ngạn.
Kinh này chảy theo hướng đông-bắc,
phía tây-nam gặp sông Ông Đốc tại
thị trấn Thới B́nh. Sông Ông Đốc
chảy ra vịnh Thái Lan qua cửa sông
Ông Đốc. Bên tả ngạn của kinh Xáng
có nhiều rạch mà Đại Nam Nhất Thống
Chí gọi là Thập Câu nghĩa là mười
con rạch, được đặt tên theo thứ tự
là rạch Thứ Một, rạch Thứ Hai cho
đến rạch Thứ Mười. Từ đó vùng này có
tên là Miệt Thứ. Xen kẻ 10 con rạch
này c̣n nhiều con rạch khác như rạch
Bàu Láng, rạch Xẻo Rô, rạch Rộc Trám,
v.v. nhưng có lẽ được đào sau này.
Tuệ Chương Hoàng Long Hải, Hương
Tràm Trà Tiên, trang 12; nxb Văn Mới,
California.
Sư đoàn 1 CSBV là sư đoàn chủ lực
của mặt trận B3, được thành lập ngày
10/12/1965 gồm 3 trung đoàn 33, 66
và 320 (Đặng Hữu Lộc, Chủ biên, Lịch
Sử Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
(1944-1975), trang 510; nxb QĐND, Hà
Nội, 2005). Các trung đoàn này xâm
nhập riêng rẽ vào miền Nam trong hai
năm 1964-65, hoạt động trên cao
nguyên. Sau đó, trung đoàn 33 được
tách ra thành một trung đoàn biệt
lập. Thay vào đó là trung đoàn 88.
Đầu năm 1967, trung đoàn 174 thay
thế trung đoàn 88. Cuối năm 1968, sư
đoàn 1(-) di chuyển xuống miền đông
Nam Bộ (Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp,
Kư ức Tây Nguyên, trang 447; nxb
QĐND, Hà Nội, 2000). Trung đoàn 101D
thay thế trung đoàn 66 đã ở lại cao
nguyên. Tài liệu chính thức của quân
đội CS lại cho rằng khi xuống miền
đông, sư đoàn 1 gồm 3 trung đoàn
95C, 101C và 209 (Đặng Hữu Lộc, Chủ
biên, Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân Việt
Nam (1944-1975), tài liệu đă dẫn
trên, trang 602).
Theo một tài liệu khác nữa th́ sư
đoàn 1 được thành lập năm 1963 và do
Trần Văn Trân làm sư trưởng, hoạt
động trên cao nguyên Trung Phần. Năm
1968, sư đoàn di chuyển xuống vùng
đồng bằng sông Cửu Long và hoạt động
trong vùng Thất Sơn. Năm 1970, trung
đoàn 52 thuộc sư đoàn 320 xâm nhập
vào Nam để trở thành trung đoàn 46
trong biên chế của sư đoàn (Phạm Văn
Phúng, Liệt sĩ Võ Nguyên Trọng
cùng 7 đồng đội đã được về yên
nghỉ tại nghĩa trang liệt sĩ
quê nhà; http:// trianlietsi.vn
/new-vn /hoat-dong-thuong-nien /1011
/CC%80.vhtm, 2/1/2012). Năm 1972,
Chính ủy sư đoàn 1 tên Thương, Phó
Chính ủy là Tạ Lệnh (Trần Kiến Quốc,
Sau 40 năm, Vơ Nguyên Trọng trở về
đất mẹ (KQ); http:// dvhnn.org.vn /index.php?language=vi&nv=news&op=savefile,
2/1/2012). Năm 1975, sư đoàn 341 nằm
trong đội h́nh quân đoàn 4 được mang
phiên hiệu sư đoàn 1 để ngụy trang.
Đầu
năm 1973, Cơ quan Tùy viên Quốc
pḥng (DAO) ghi nhận sư đoàn 1 có
quân số 3 400 người, gồm 2 trung
đoàn BB là 52, 101D và trung đoàn 44
đặc công (Col. W E Le Gro, Vietnam
from Cease Fire to Capitulation,
trang 30; U.S. Governement Printing
Ofice, Washington, D.C., in lần thứ
hai, 1985).
Ngày
2/10/1973, QLVNCH bắt được hai tù
binh thuộc trung đoàn 101D. Cung từ
cho biết sư đoàn 1 đă bị giải tán
(Col. W E Le Gro, Vietnam from Cease
Fire to Capitulation, tài liệu đă
dẫn trước, trang 67).
John D. Evans, Province Senior
Advisor, Province Report - Dinh
Tuong Province and My Tho City;
Advisory Team 66, APO 96359, 1 April
1972.
Sau chiến tranh, báo chí CS đă sai
lầm khi cho rằng sư đoàn 1 được giải
thể vào cuối năm 1969 để có thể đưa
các trung đoàn thọc sâu xuống vùng
đồng bằng sông Cửu Long (Nguyễn Phú
Dũng, Phiên hiệu đơn vị KT và các
đơn vị chiến đấu tại Mặt trận Tây
Nguyên B3; http:// laodong.com.vn
/Home
/Phien-hieu-don-vi-KT-va-cac-don-vi-chien-dau-tai-Mat-tran-Tay-Nguyen-B3
/200810 /109241.laodong, 31/3
/2012).
Đại tá, PGS, TS. Hồ Khang, Lịch sử
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
1954-1975, Tập 7; nxb CTQG, Hà Nội,
2007.
Nguyễn Văn B́nh, Lê Như Tiến & Lê
Ngọc Tú, Việt Nam Từ Cuộc Chiến
Tranh Giải Phóng Dân Tộc Tới Đổi Mới
Và Phát Triển (Hồ sơ 60 năm -
1945-2005), trang 263; nxb Lao Động,
Hà Nội, 2005.
|