Những Ḍng Sông Việt Nam
Sau gần 20 năm mở
cửa và đẩy mạnh kinh tế với hơn 64 khu chế xuất và khu công nghiệp, cộng
thêm hàng trăm ngàn cơ sở hóa chất và biến chế trên toàn quốc. Vấn đề chất
thải là một nan đề của phát triển đối với những quốc gia c̣n đang phát
triển, và chất thải lỏng trong trường hợp Việt Nam đă trở thành một vấn
nạn lớn cho quốc gia hiện tại v́ chúng đă được thải hồi thẳng vào các ḍng
sông mà không qua xử lư. Qua thời gian, nguy cơ ô nhiễm ngày càng tăng
dần, và cho đến hôm nay, có thể nói rằng t́nh trạng ô nhiễm trên những
ḍng sông Việt Nam đă tăng cường độ kinh khủng và không c̣n phương cách
nào cứu chữa được nữa.
Qua báo chí và truyền thanh ở VN từ hơn hai năm qua,
tin tức ô nhiễm nguồn nước ở hầu hết sông ng̣i VN, đặc biệt ở những nơi có
phát triển trọng điểm. Nhiều ḍng sông trước kia là nơi giặt giũ tắm rữa,
và nước sông được xử dụng như nước sinh hoạt gia đ́nh. Nay t́nh trạng hoàn
toàn khác hẳn. Người dân ở nhiều nơi không thể dùng những nguồn nước sông
nầy nữa.
Những nơi được đề cập đến có thể được chia ra từng khu
vực khác nhau từ Bắc chí Nam tùy theo sự phát triển của từng nơi một. Đó
là:
- Lưu vực sông Cầu và các phụ lưu qua các tỉnh Bắc Cạn,
Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hải Dương.
- Lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy chảy qua các tỉnh Ḥa
B́nh, TP Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Nam Định, và Ninh B́nh.
- Lưu vực sông Đồng Nai, sông Sài G̣n gồm các tỉnh Lâm
Đồng, Đắc Lắc, Đắc Nông, B́nh Phước, B́nh Dương, Tây Ninh, Đồng Nai (Biên
Ḥa), TP HCM, Bà Rịa-Vũng Tàu, Ninh Thuận, và B́nh Thuận.
- Lưu vực Tiền Giang và Hậu Giang gồm các tỉnh thuộc
ĐBSCL.
Lưu vực sông Cầu
Đây không phải là nguy cơ ô nhiễm mà là một lưu vực đă
bị ô nhiễm hoàn toàn. Dân số sống trong lưu vực nầy chiếm khoảng 7 triệu
trên một diện tích độ 10 ngàn Km2. Trong lưu vực nầy, ngoài khu sản xuất
công nghiệp lớn nhất Thái Nguyên, qua việc khai thác mơ và hóa chất, c̣n
có trên dưới 800 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và quy mô công nghiệp
nhỏ như các làng nghề tập trung. Lượng chất thải lỏng thải hồi vào lưu vực
sông Cầu ước tính khoảng 40 triệu m3/năm. Riêng khu vực Thái Nguyên thải
hồi khoảng 24 triệu m3 trong đó có nhiều kim loại độc hại như Selenium,
Mangan, Ch́, Thiết, Thủy Ngân và các hợp chất hữu cơ từ các nhà máy sản
xuất hóa chất bảo vệ thực vật như thuốc sát trùng, thuốc trừ sâu rầy, trừ
nấm mốc v.v....
Tại tỉnh Bắc Ninh, có trên 60 làng nghề đă có từ lâu
đời. Nơi đây cũng c̣n có các ngành chế biến lâm sản và kỹ nghệ giấy và tái
sinh giấy. Các kỹ nghệ nầy đă phát thải nhiều hóa chất hữu cơ độc hại
trong đó các chất tẩy trắng chứa chlor là một nguy cơ ô nhiễm cao nhất. V́
trong công đoạn nầy phát sinh ra dioxin, mầm móng của bịnh ung thư. Thêm
nữa, trong các phụ lưu của sông Cầu, hầu hết những thông số phân tích đều
vượt qua tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến hơn 50 lần như nhu cầu oxy hóa học
(COD), lượng oxy ḥa tan (DO), tổng cặn lơ lững (TSS), nitrite (NO2).
Với những thông số ghi nhận tên đặc biệt là DO, một
thông số chỉ lượng oxy ḥa tan rất thấp, nhiều khi dưới 1,0 đơn vị, có
nghĩa là trong lưu vực sông Cầu lượng tôm cá hầu như không c̣n hiện diện
nữa.
Lưu vực sông Nhuệ
Dân số trong lưu vực nầy khoảng 10 triệu trên một diện
tích 7.700 Km2. Đây là một vùng có mật độ dân số cao trên 1.000 người/Km2
và cũng là một trung tâm kinh tế quan trọng. Do đó ngoài nước thải công
nghiệp, cần phải kể thêm nước thải sinh hoạt gia cư, tất cả đều đổ thẳng
ra sông hồ. Lượng nước thải sinh hoạt được ước tính là 140 triệu m3 theo
thống kê 2004. C̣n các nguồn nước thải của trên 120 cơ sở sản xuất công
nghiệp ở vùng nầy trừ Hà Nội ước tính khoảng 120 triệu m3/năm. Riêng tại
Hà Nội, có 400 xí nghiệp và khoảng 11 ngàn cơ sở sản xuất tiểu thủ công
nghiệp thải hồi trung b́nh 20 triệu m 3/năm. Hà Tây là nơi trọng điểm của
làng nghề chiếm 120 làng trên tổng số 286 làng nghề trong khu vực.
Hai hạ lưu có ô nhiễm trầm trọng nhất là sông Nhuệ và
sông Tô Lịch với hàm lượng DO hầu như triệt tiêu, nghĩa là không c̣n điều
kiện để cho tôm cá sống được, và vào mùa khô nhiều đoạn sông trên hai sông
nầy chỉ là những băi bùn nằm trơ cùng trời đất.
Lưu vực sông Đồng Nai và sông Sài G̣n
Lưu vực nầy chẳng những là một vùng đông dân cư như Hà
Nội, với diện tích 14.500 Km2 và dân số khoảng 17,5 triệu, và cũng là một
vùng tập trung phát triển công nghiệp lớn nhất và cũng là một vùng được đô
thị hóa nhanh nhất nước. Hàng năm sông ng̣i trong lưu vực nầy tiếp nhận
khoảng 40 triệu m3 nước thải công nghiệp, không kể một số lượng không nhỏ
của trên 30 ngàn cơ sở sản xuất hóa chất rải rác trong Thành Phố HCM. Nước
thải sinh hoạt ước tính khoảng 360 triệu m3. Ngoài những chất thải công
nghiệp như hợp chất hữu cơ, kim loại độc hại như: đồng, ch́, sắt, kẽm,
thủy ngân, cadmium, mangan, các loại thuốc bảo vệ thực vật. Nơi đây c̣n
xảy ra hiện tượng nước sông bị acid hóa như đoạn sông từ cầu B́nh Long đến
Bến Than, nhiều khi độ pH xuống đến 4,0 (độ pH trung ḥa là 7,0), và trọng
điểm là sông Rạch Tra, nơi tất cả nước rỉ từ các băi rác thành phố và hệ
thống nhà máy dệt nhuộm ở khu Tham Lương đổ vào.
Lưu vực nầy hiện đang bị khai thác quá tải, nước sông
hoàn toàn bị ô nhiễm và hệ sinh thái của vùng nầy bị tàn phá kinh khủng,
và đây cũng là một yếu tố sống c̣n cho sự phát triển cho cả nước, chiếm
30% tổng sản lượng quốc dân. Vào tháng 12/2005, Bộ Tài Nguyên & Môi Trường
đă tổ chức hội thảo “Bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai” đă
nói lên tính cách quan trọng của vấn đề.
Kết luận được ghi nhận trong hội thảo nầy là có 4 khu
vực bị ô nhiễm trầm trọng. Đó là: 1 – Đoạn sông Đồng Nai từ cầu Ḥa An đến
cầu Đồng Nai, nơi cung cấp nguồn nước chính cho cư dân Sài G̣n, 2 - Đoạn
từ B́nh Phước đến Tân Thuận, địa phận của trên 10 khu chế xuất, 3 - Đoạn
sông Thị Vải từ nhà máy hóa chất và bột ngọt Vedan của Đài Loan đến cảng
Phú Mỹ, 4 - Và nước sông Vàm Cỏ Đông. Riêng sông Vàm Cỏ Đông, nước sông
nầy đang bị acid hóa nặng. Công ty Vedan sau nhiều lần được Sở Môi Trường
Thành Phố đề nghị đóng cửa từ năm 1997, hiện nay vẫn là một đề tài nhức
nhối cho Bộ TN&MT. Theo chỉ thị của ông Mai Ái Trực, Bộ Trưởng, tại đây
cần phải có chuyên viên túc trực hàng ngày để theo dơi t́nh trạng ô nhiễm;
và trong năm 2006, nếu công ty không giải quyết các vấn đề ô nhiễm sẽ được
chế tài bằng kỹ thuật và sẽ được đệ tŕnh đóng cửa vĩnh viễn.
Hiện nay, lưu vực sông Đồng Nai có 39 khu chế xuất, khu
công nghiệp; và số lượng nầy sẽ tăng lên 74 đến năm 2010 theo kế hoạch đă
soạn thảo xong. Do đó t́nh trạng ô nhiễm trong những năm sắp đến sẽ trở
nên câu chuyện hàng ngày của lưu vực nầy.
Lưu vực sông Tiền Giang và Hậu Giang
Đây là một vùng hết sức đặc biệt và cũng là một lưu vực
lớn nhất và đông dân nhất với diện tích 39 ngàn Km2 và gần 30 triệu cư
dân.. Phát triển kinh tế nơi đây đặt trọng tâm là nông nghiệp và chăn nuôi
thủy sản. V́ đây không phải là một trọng điểm công nghiệp cho nên những
vấn nạn môi trường không giống như t́nh trạng của 3 lưu vực vừa kể trên.
Nhưng việc khai thác nông nghiệp và thủy sản đă trở thành một vấn đề cần
phải lưu tâm trong hiện tại. Việc ô nhiễm hóa chất do dư lượng phân bón và
thuốc bảo vệ thực vật là kết quả của việc khai thác tối đa nguồn đất cho
nông nghiệp. Đă có nhiều chỉ dấu cho thấy các hóa chất độc hại như DDT,
Nitrate, hóa chất BVTV thuộc nhóm organo-phosphate, nguyên nhân của những
mầm bịnh ung thư đă hiện diện trong nước. Thêm nữa, viễn ảnh nguồn nước ở
lưu vực nầy bị ô nhiễm arsenic do việc đào trên 300 ngàn giếng để dùng cho
sinh hoạt và tưới tiêu cũng sẽ là một quốc nạn trong tương lai không xa.
Thêm nữa, việc khai thác chăn nuôi thủy sản trên sông, ngoài việc làm cản
trở ḍng chảy của sông, việc di chuyển trên sông sẽ khó khăn thêm, mà c̣n
là một vấn nạn môi trường không thể tránh khỏi. Từ thượng nguồn Châu Đốc,
An Giang, cho đến tận Mỹ Tho, cá bè trong mùa cá vừa qua bị chết hàng loạt
do nguồn nước ô nhiễm từ thượng nguồn do cá chết lây lan xuống hạ lưu. Kết
quả là trên 40% lượng tôm cá bị thất thoát trong mùa vừa qua (VN trong
gian đoạn nầy phải nhập cảng tôm sú và cá basa của Trung Quốc và Mă Lai để
thanh toán hợp đồng c̣n đang tồn động với các nước khác)
Ngoài ra, do việc tận dụng nguồn nước cho tưới tiêu,
việc khai mở đê điều không hợp lư đă khiến cho ĐBSCL phải đối mặt với vấn
đề ngập mặn do nạn hạn hán kéo dài trong khi hệ sinh thái có nguy cơ bị
hủy diệt do ô nhiễm. Năm 2005 vừa qua, nước mặn đă vào sâu trên 120 Km
trong đất liền làm tăng khả năng bị hoang hóa của đất trong vùng nầy.
Đề nghị góp ư
Phát triển kinh tế không đi đôi với việc bảo vệ môi
trường, kết quả tất nhiên là t́nh trạng môi trường ngày càng xuống cấp và
cường độ ô nhiễm ngày càng tăng thêm mà thôi. T́nh trạng cho đến ngày hôm
nay có thể nói là đă đến giai đoạn gần như bế tắc. Chính ông Bộ Trưởng
TN&MT cũng đă kêu gọi địa phương cứu lấy các con sông trước khi quá muộn,
đừng để như trường hợp của sông Đáy và sông Tô Lịch. Tương lai là những
ḍng sông VN sẽ trở nên những ḍng sông chết cũng như việc phát triển sẽ
bị khựng lại v́ môi trường không thể chấp nhận thêm nguồn nước thải thêm
nữa. Chúng tôi thiết nghĩ VN không c̣n nhiều thời gian để giải quyết vấn
đề nếu không nói là đă muộn rồi. Những việc cấp bách cần làm để có thể cứu
văn t́nh h́nh được đề nghị như sau:
- Cần phải tái phối trí kế hoạch xây dựng các khu công
nghiệp, khu chế xuất trên toàn diện cả nước để tránh bớt áp lực của những
khu vực trọng điểm
- Trong một khu công nghiệp cần phải điều phối để cho
những cơ sở sản xuất có thể liên hợp với nhau như thành phẩm hay phế thải
của một cơ sở sẽ là nguyên liệu của một cơ sở khác, hay ngược lại. Đây mới
chính là suy nghĩ đúng đắn của việc thành h́nh một khu công nghiệp.
Làm được hai việc trên, mới hy vọng có thể tháo gở được
một phần nào t́nh trạng ô nhiễm của những ḍng sông VN hiện tại.
Mai Thanh Truyết
West Covina, 2/2006