Home 

Trang Chính 

Bản Tin 

Sinh Hoạt 

Tham Luận 

Hoài Băo Quê Hương 

Văn Học Nghệ Thuật 

Thư Tín 

 

 

 

Bản Lên Tiếng của Hội CSV/QGHC Nam Cali nhân ngày Quốc Hận 30 Tháng 4

THỜI SỰ - CHÍNH TRỊ




Chiến Trường Đă Mất

Giới thiệu con người Long Khánh mà chỉ nói đến những người giỡn mặt với tổng thống, linh mục, thượng tọa, những anh già “trật búa”, những tay playboy hào hoa phong... đòn gánh thì người viết đáng bị lãnh một trận mưa... mắng! Bởi vì “nhân kiệt” ít ra cũng phải là hạng người chấp nhận và vượt thắng sự thách đố. Ở Long Khánh, đó là sự thách đố của thiên nhiên và của chiến tranh (đúng hơn là của Việt cộng).

Năm 1955 khi những người miền Bắc Công giáo di cư đặt chân lên Dốc Mơ, họ không chỉ đối đầu với bệnh sốt rét ngã nước. Việt cộng đã chặt đầu vài người cắm trên cây cọc để dằn mặt họ trên mảnh đất hoang đầy cỏ và cây nầy. Họ đã chấp nhận sự thách đố của thiên nhiên, của đất và của người để biến thành một vùng nhà thờ san sát nhau và vào thập niên 70, mỗi mẫu ruộng trị giá một triệu đồng. Họ đã biến những sườn đá tổ ong bên quốc lộ 20 thành những đồi chuối chập chùng. Năm 1957, những người Nùng gia đình cựu quân nhân sư đoàn 3 dã chiến giải ngũ cũng chấp nhận sự thách đố nầy ở những vùng cách xa quốc lộ tại Bàu Hàm, Trung Hiếu, cây số 130. Hoa lợi mỗi mẫu trồng thuốc rê của họ vào thập niên 70 hơn một triệu đồng một mùa.

Đồng bào Nùng trồng thuốc rê nhưng không hút. Vào mùa hái thuốc, một đoàn người từ Cao Lãnh, Kiến Phong kéo lên đây xắt thuốc thuê. Công việc được làm về đêm, dưới ánh đèn măng-xông. Anh thợ xắc quấn các lá thuốc vào con ngựa gỗ cụt đầu, tay đưa nhanh lưỡi dao cầu xăc thành từng sợi mỏng. Một nhóm ba, bốn cô gái trải các sợi thuốc trên các tấm phên tre, lấy chân dậm đều trước khi đem phơi sương. Bắp chân các nàng tròn trắng, các nàng cười nói đưa đẩy với anh chàng xăc thuốc. Và định mệnh đã an bài: những chàng xăc thuốc Cao Lãnh nổi tiếng nhiều vợ! Thuốc phơi chừng ba, bốn sương thì có thể đóng thành bánh hình hộp mỗi bề chừng nửa thước để đem bán. (Click vào tựa đề trên để xem tiếp)
 


Chỉ Một Chữ Thầy

    

       Chúng tôi hẹn nhau sáng ngày thứ tư cũng c̣n trong Giêng ngày Tết để đến thăm ông cụ. Tuy hơi muộn nhưng vẫn c̣n hơn không. Thực ra ở bên nầy những ngày cuối tuần mới tiện các việc đi lại hay tham dự vào các lễ lạc. Lâu dần thành quen. Làm ǵ hay kỷ niệm ǵ cũng đợi vào những ngày cuối tuần. Nhưng hôm nay chúng tôi chọn ngày thứ tư là v́ anh em muốn đến càng sớm càng tốt v́ cụ năm nay đă 97 tuổi rồi mà chúng tôi cũng chỉ mới biết nhà cụ lúc gần đây thôi. Qua anh con rể của cụ.

        Trời trong nắng rơ, đường phố xe cộ dập d́u, không thấy một bóng người đi bộ. Tôi t́m chỗ đậu xe bên lề đường hơi xa nhà cụ một đỗi. Đi dọc theo vỉa hè dưới những tàng cây lớn, bóng mát lan tỏa ra tới tận ngoài đường. Cảm giác thật rộn vui đầy phấn khích.

        Anh Hiếu ra tận ngơ đón chúng tôi lần lượt kẻ sớm người muộn vào bên trong. Nhà bày biện đơn sơ. Ngay lối vào bên phải sát cửa sổ là cây dương cầm màu gụ đen bóng loáng, phía trên thấy có một bản nhạc c̣n mở ra để nguyên như vậy trên giá. Tôi sững sờ bước đi chậm lại, hơi rón rén khi nh́n thấy cụ đang nằm nghiêng quay mặt ra phía ngoài trên chiếc ghế salon dài bằng da màu đen. Anh Hiếu bảo: - Ông cụ chỉ vừa chợp mắt. . (Click vào tựa đề trên để xem tiếp)
 


Người Chiến Sĩ Không Quân Phục

       Sáng hôm nay, một sớm đầu xuân đúng bốn mươi bốn năm sau ngày mất  nước, tôi ngồi nhâm nhi ly cà phê đầu ngày trong không khí se lạnh của miền đất tỵ nạn California.  Tôi mở máy vi tính cá nhân (PC) nh́n lại tấm h́nh do anh bạn đồng môn Hành Chánh từ San Jose gởi đến từ tối hôm qua. Trong h́nh, tôi và các bạn sinh viên sĩ quan Thủ Đức đang ngồi nghỉ chân sau một buổi tập ở quân trường. Nh́n các bạn trong h́nh, các chiến hữu một thời của tôi,  giờ đây ai c̣n ai mất? Sau hơn bốn mươi năm “lạc đàn tan nghé”,  kể từ ngày 30 tháng Tư oan nghiệt năm đó, những người c̣n sống sót, nay đang ở nơi nao?                                               

        Nh́n h́nh dáng của tôi trong b quân phục Thủ Đức ở lứa tuổi đôi mươi, với  kính trắng gọng đen, với khuôn mặt gầy ốm rắn rỏi… hiện trên màn ảnh máy vi tính khiến tôi măi bâng khuâng.  Trong suốt  bảy năm làm việc trong ngành hành chánh ở các địa phương xa xôi nguy hiểm, tôi đă xếp cất, ǵn giữ bộ quân phục ấy thật  cẩn thận, như một bảo vật nhiều kỷ niệm nơi quân trường năm xưa. Sau đó tôi đă mặc lại nó, chuẩn bị tác chiến…Nhưng oái oăm thay, đó là lúc theo lệnh cấp trên, chúng tôi phải di tản ra khỏi mặt trận  Xuân Lộc đang khói lửa ngút trời… Trải qua bao tang thương biến đổi cuộc đời, nay th́ bộ quân phục nhiều kỷ niệm ấy không c̣n nữa. Dù sao nó cũng đă để lại trong ḷng tôi bao niềm luyến tiếc lẫn tự hào v́ đă một thời đóng góp cho sự tồn vong của quê hương đất nước; dẫu đó là những sự đóng góp khiêm tốn của một “chiến sĩ không quân phục”. Sau ngày nước mất nhà tan, chúng  tôi  đành sống cuộc đời của kẻ tỵ nạn ly hương, cảm thông được tâm trạng của con hổ trong bài Nhớ Rừng của Thế Lữ, với câu thơ  cảm khái:  “Than ôi, thời oanh liệt nay c̣n đâu!” (Click vào tựa đề trên để xem tiếp)
 


Ông Phó Đốc Sự

       Năm 1972 tốt nghiệp ra trường tôi chọn nhiệm sở về tỉnh Kontum. Đa phần sinh viên các khóa mới ra trường đều phục vụ ở các tỉnh xa Sài G̣n hay các tỉnh nhỏ thường được xếp là vùng nước độc, có lănh tiền phụ cấp và thăng trật nhanh hơn, một năm rưỡi so với hai năm ở các tỉnh lớn, đông dân và tương đối an ninh. Lúc bấy giờ rất hăng hái, ḷng tràn đầy nhiệt huyết dấn thân phục vụ đất nước, cho dù đi bất cứ nơi đâu. Hơn nữa khi chọn về những nơi lừng danh chiến trận như B́nh Long, Trị Thiên hay Kontum th́ toàn thể hội trường anh em vỗ tay ḥ hét nhiệt liệt tán dương. Chỉ có vậy thôi, cũng đủ để tự hào như người anh hùng sắp ra trận.

        Trước khi rời Sài G̣n tôi ra đường Lê Lợi đi dọc theo vỉa hè để t́m mua một tấm bản đồ tỉnh Kontum cở lớn dùng để treo tường hay lót dưới bàn có phủ kính dày. Ghé qua văn pḥng Bộ Nội Vụ nhận sự vụ lệnh và giấy trưng vận Hàng Không Việt Nam đi Pleiku. Khi ấy, sau “Mùa Hè Đỏ Lửa” phi trường Kontum bị hư hại nặng chưa được phục hồi nên đường bay chỉ tới Pleiku và sau đó phải đi xe đ̣ tự túc hơn 40 cây số nữa để lên Kontum. May mắn, nhiệm sở có hai chỗ mà anh bạn cùng đi với tôi lại là người quê quán ở đó nên cũng yên tâm.

        Hành lư mẹ xếp chật cứng va li không c̣n chỗ trống nên một số sách c̣n gởi trong Kư Túc Xá hôm dọn trả pḥng về quê đành phải để lại nhờ Bác Giám thị giữ dùm, chờ lần tới về Sài G̣n sẽ lấy. Chỉ nhét duy nhất một quyển “Soạn Thảo Công Văn” của Giáo Sư Lê Thái Ất và một con dấu bằng đồng khắc tên tôi để làm hành trang lên đường... ... (Click vào tựa đề trên để xem tiếp)
 


 


Click vào đây để xem Bản Tin số 22             


Quí vị có thể liên lạc qua cell phone số:
(562) 528-6274


 


Lời nói đầu

        Cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ nhất từ 1946 đến 1954 được kết thúc bằng Hiệp định đ́nh chiến chia đôi đất nước do Pháp và Việt Minh kư kết ngày 20-7-1954 tại Genève. Người dân hai miền cũng như trên thế giới tưởng là đă hết loạn lạc có ḥa b́nh nhưng chỉ mấy năm sau đất nước lại bị nhận ch́m trong cảnh binh đao khói lửa ngút trời.

       Cuộc chiến Việt Nam lần thứ hai vô cùng tàn khốc và kéo dài như vô tận, hai miền Nam, Bắc đâu đâu cũng toàn là cảnh hoang tàn đổ nát.

       Sau hai mươi năm đất nước bị tàn phá tan nát v́ bom đạn, một Hiệp định ḥa b́nh khác lại được kư kết giữa Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Ḥa và Cộng Sản Hà Nội vào ngày 27-1-1973 tại Paris. Lần này nó mang tên Hiệp định chấm dứt chiến tranh lập lại ḥa b́nh ở Việt Nam, cũng thường gọi là Hiệp định Paris, Hiệp định ngưng bắn.

       Cách đây hai mươi năm người Pháp ghê sợ cuộc chiến tám năm khói lửa đă phải kư Hiệp định đ́nh chiến để rút bỏ Đông Dương. Năm 1973 người Mỹ cũng quá hăi hùng với cuộc chiến dài như vô tận đă kư Hiệp định ngưng bắn để rút ra khỏi cuộc chiến mà họ coi là cơn ác mộng.

       Khi Hiệp định thành h́nh và có hiệu lực, người dân miền Nam hân hoan sung sướng, họ cũng tưởng là đất nước nay đă im tiếng súng hết chiến tranh. Chua chát thay chỉ hai năm sau quân đội Bắc Việt mở cuộc tổng tấn công vũ băo chiếm trọn miền Nam trong khoảng thời gian chưa đầy hai tháng.

       Sau ngày 30-4-1975, miền nam Việt Nam hết loạn lạc, chiến tranh khói lửa, nhưng đó không phải là nền ḥa b́nh tự do hạnh phúc như người dân đă hằng mơ ước mà chỉ là nền ḥa b́nh trong nô lệ.

           Tháng Tư đen năm 2018

               Trọng Đạt
 



Con Chuột

          Nạn đói xảy ra tại Nigeria, Somalia, Nam Sudan và Yemen do thiên tai, chiến tranh trong những năm qua đă được thế giới biết đến và Liên Hiệp Quốc kêu gọi cứu trợ khẩn cấp…  

            Thế th́ những cái chết âm thầm của các bạn tù xấu số trong trại  “cải tạo” tại Việt Nam, khắp nơi trong rừng núi xa xôi, hẻo lánh không ai biết đến v́ bọn cán bộ quản lư trại đă dấu nhẹm, dấu cả với thân nhân của nạn nhân đến trại thăm nuôi… Những cái chết ấy liên tục xảy ra hàng ngày, hàng tháng, hàng năm, hàng chục năm; những cái chết xảy ra trước mắt những bạn đồng tù như chúng tôi, th́ làm sao tôi có thể quên được?!

            Đă hơn ba mươi năm thoát khỏi cái chết đau thương âm thầm trong trại tù khắc nghiệt trên thượng nguồn sông Mă, hàng năm anh em cựu tù chúng tôi vẫn họp mặt tại khu Little Sài g̣n, miền Nam California để “điểm danh” ai c̣n ai mất; để thắp nén hương ḷng tưởng nhớ những bạn tù xấu số c̣n vĩnh viễn nằm lại trong ḷng đất trên đồi Lim, cạnh trại tù “cải tạo” Thanh Cẩm năm xưa.  (Click vào tựa đề trên để xem tiếp)
 



Người Thợ Vẽ Bên Dốc Cầu Quay

 

      ... Thế rồi vào một buổi sáng sớm trời c̣n sương đục mặt trời chưa lên. Xe cộ và người qua lại đông đúc như mắc cửi, nhất là xe gắn máy Honda Dame cánh nhựa sơn hai màu xanh trắng lướt rất đẹp và nổi bật trên đường phố. Hôm ấy ngày tựu trường, từng nhóm nhỏ học sinh áo quần tươm tất đang tụ tập dọc theo lề đường líu lo tṛ chuyện chờ mở cổng. Mấy đứa rất vui tươi, gương mặt rạng rỡ v́ mới thi đậu bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp và đang hy vọng chỉ c̣n hai, ba năm nữa thôi là tới bậc Tú Tài, nếu đi lính sẽ là sĩ quan hay vào các trường chuyên nghiệp là cán sự, c̣n thi đậu vô trường Y khoa học sẽ trở thành Bác sĩ. Nghĩ tới đó mà ḷng rộn vui quên hết mọi sự đời. Nh́n xéo qua bên kia ngă tư là trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân đang dập d́u áo dài trắng, nón lá phất phơ rồi mơ màng “Gió sân trường lồng lộng áo ai bay …” Cả bọn cùng tự hănh mặt lên trời cười vang.

        Bỗng từ xa xa trong lề đường dưới các tàng me cao có trái chín rụng lác đác. Trên con đường đất phủ đầy lá me khô xuất hiện hai vị sư khất thực, kẻ trước người sau đang lầm lũi đi tới. Cả bọn ngạc nhiên khi nh́n thấy vị sư đi trước c̣n trẻ măng và h́nh như là đứa bạn học cùng lớp hồi năm ngoái. Không dám vô lễ nên chỉ dơi mắt nh́n theo riết cho đến khi các vị sư đi khuất rồi mới bàn tán. Nh́n quanh quất để t́m xem có ai giống không. Đến khi vào lớp học hỏi thăm các bạn ở khắp các ban ABC cũng không ai thấy. Mấy hôm sau, có đứa bạo dạn chay theo vị sư đi trước.

        - Thưa thầy có phải thầy là …
        - Mô Phật.

        Từ sau đó không thấy hai vị sư đi ngang qua đường trước cổng trường như trước nữa.... (Click vào tựa đề trên để xem tiếp)
 


Nơi Cuối Chân Trời

       ... Hai người im lặng đi bên nhau. Đêm đă bắt đầu khuya.Tân nh́n con đường dài hun hút trước mặt, mờ tối dưới ánh đèn tù mù. Con đường mang tên Ba Tháng Hai này, trước đây là đường Trần Quốc Toản. Và cũng giống như sự “đổi mới” những con đường thành phố, tên Sài G̣n quen thuộc với người dân Miền Nam hơn ba trăm năm qua, cũng chịu cảnh đổi chủ thay tên. Anh quay nh́n về phía sau. Trên con đường này, hai mươi năm trước khi theo học ở ngôi trường đào tạo cán bộ hành chánh ở Miền Nam - trường Quốc Gia Hành Chánh Sài G̣n, anh đă mơ tưởng viễn ảnh một tương lai huy hoàng, niềm hănh diện được phục vụ đất nước trong thời loạn. Nhưng rồi sau đó nước mất nhà tan, Miền Nam rơi vào tay CS, anh phải đi tù “cải tạo”như hàng trăm ngàn quân cán chính cùng số phận như anh …. 

            Thu thấy người bạn “vong niên” đi bên nàng im lặng khá lâu, bèn lên tiếng:

           - Chú Tân à! Hôm trước cháu nghe thầy dạy kế toán cho biết chú là bạn học ngày xưa với thầy ấy. Nhưng sau năm bảy lăm, chú kém may mắn hơn nhiều…! Rồi đây, chú đâu có thể kéo dài cuộc sống vất vả, thiếu thốn thế này măi được!  Chú có ư định vượt biên để t́m cuộc sống mới không? … (Click vào tựa đề trên để xem tiếp)
 

 


Chuyện Người Không Biết Buồn


Sân Chùa Liên Hoa (12/9/2015)

      ... Vào thời điểm này, cháu cũng đă lớn cũng hơi biết t́nh đời nên cháu rất ngạc nhiên tự hỏi tại sao gia đ́nh cháu lại phản ứng thụ động như vậy. Đối với Ông Bà Ngoại th́ sự việc xảy ra quá bất ngờ nên chỉ thấy xấu hổ, phải ráng chịu đựng thôi, chứ làm toáng ra chỉ thêm bẽ mặt. Riêng cậu Ưng th́ quá chân chỉ hạt bột nên không biết phản ứng thế nào  Hay là có những bí ẩn ǵ khiến cậu phải im lặng đau khổ thôi. Cho đến giờ phút này, nghĩ lại cháu chỉ thấy cậu Ưng quá ngây thơ nên bị người đàn bà có chồng giăng bẫy”.
         “Sau đó cậu Ưng đă bỏ nhà theo cô Hai, gia đ́nh cháu v́ không chấp thuận nên giữ khoảng cách cả cho đến giờ phút này khi mợ Hai không c̣n nữa. Tiếc rằng, hai người đă không có con với nhau nên chẳng những cái oan khiên trước đây không xóa bỏ được mà cậu Ưng lại trở thành ông lăo mồ côi không c̣n trí nhớ”.
        “Khi cậu Ưng c̣n tương đối tỉnh táo, gia đ́nh bà Lâm thị Hai đă dự tính đưa Bà Hai và Cậu Ưng về Việt Nam sinh sống với gia đ́nh người con trai riêng của Bà Hai.
... (Click vào tựa đề trên để xem tiếp)



Tưởng Nhớ Bạn Tôi

        ... Một buổi chiều tôi cùng ngồi với Lê Hiếu Liêm ở thư viện QGHC, tôi thấy ông bạn cứ nh́n sang bàn bên kia với dăm ba cô sinh viên năm thứ nhất trường Luật. Lê Hiếu Liêm lại lôi giấy bút ra viết rồi xóa, xóa rồi viết lia chia hăng say, miệt mài như đi thi gặp phải đề “trúng tủ”. Hồi sau Lê Hiếu Liêm đẩy qua cho tôi một bài thơ, bảo tôi coi thử trước khi được trang trọng gởi đi. Lâu quá rồi, tôi c̣n nhớ bài thơ mang máng đại khái như sau:

     Em luật khoa Bắc Kỳ nho nhỏ
     Tóc không dài, chẳng ngắn kiểu đờ mi
     Dáng thon thon, sang cả kiêu kỳ
     Làm chấn động con tim chàng núi Ngự
     Ta ngồi đây với đất trời viễn xứ
     Nhớ sông Hương êm ả một ḍng trôi
     Chiều Thiên An nắng nhảy múa trên đồi
     Ta mơ ước được cùng em rảo bước
     Tưởng gặp em từ muôn kiếp trước
     Nhớ thương em đến vạn kiếp về sau
     Răng có long và tóc có đổi màu
     T́nh ta vẫn ở bên hông trường Luật…

        Tôi đề nghị Lê Hiếu Liêm nên chép bài thơ thành 2 bản, đúng theo nguyên tắc hành chánh. Môt bản gởi cho người đẹp, c̣n một bản lưu. Nếu chỉ có một bản gởi đi, không may người đẹp tống vào sọt rác hay quẳng cho thằng em làm tàu thủy thả theo ḍng nước chảy trước hiên nhà trong một chiều Saigon mưa xối xả th́ ôi thôi, kể như tiêu tùng! Mai hậu các nhà nghiên cứu sưu tầm t́m đâu ra bài thơ để cho in vào tuyển tập “1000 bài thơ t́nh hay nhất thế kỷ”.

        Lê Hiếu Liêm nói sẽ chép, không những thành hai mà ba bản. Bản cuối cùng sẽ giao cho tôi đăng trên giai phẩm Xuân HC với lời đề tựa tặng: “Gởi Triệu Thị D. Đại học Luật khoa” ... (Click vào tựa đề trên để xem tiếp)

Vẫn C̣n Ấm Ức

        ... Nhân viên Bộ Ngoại Giao xem ra không mấy hoan hỷ với viễn tượng từ nay mỗi năm sẽ có thêm 10 người mới vào ngạch trật thấp nhất sẽ là Tham Vụ hạng nhất. Họ đưa ra những ư kiến kỳ thị như là đám ấy ra trường sẽ được gởi về địa phương giúp đỡ các Tỉnh trưởng về giao tế và nghi lễ, hoặc là họ có thể được về Bộ Ngoại Giao nhưng chỉ phục vụ trong nước mà thôi (sédentaire) giống như cách tổ chức Bộ ngoại Giao Nhật Bản. Mặt khác họ cố t́nh “downplay” sự có mặt của chúng tôi. Mỗi năm chúng tôi phải đi thực tập tại Bộ Ngoại Giao 2 tháng. Ấy vậy mà phải lần thực tập năm thứ hai chúng tôi mới được Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc tiếp kiến với sự hiện diện của tất cả viên chức cao cấp khác của Bộ. Tôi thay mặt anh em đồng khóa đọc diễn văn rất cảm kích gợi lại những kỷ niệm 15 năm trước chính giáo sư cũng tại chỗ nầy số 6 Alexandre De Rhodes (vốn là Học Viện Quốc Gia Hành Chánh trước khi dời về đường Trần Quốc Toản) đă truyền đạt những kiến thức căn bản về các học thuyết chính trị. Giáo sư Bắc tiếp chúng tôi đặc biệt niềm nở và tỏ ư kỳ vọng vào việc đào tạo viên chức ngoại giao của trường Quốc Gia Hành Chánh. Chúng tôi cũng nhắc nhở nhau trong thời gian thực tập hăy nỗ lực làm việc hầu gây ấn tượng tốt. Và cái nh́n của các cấp chỉ huy bộ đă thay đổi, thuận lợi hơn.
        Thế rồi cũng đến ngày ra trường. Lễ tiếp nhận chúng tôi tại Bộ Ngoại Giao đă được tổ chức trang nghiêm trọng thể. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy thay mặt trường Quốc Gia Hành Chánh (không c̣n là Học Viện nữa, một thành tích của Đại tá Quách Huỳnh Hà, Tổng Ủy Trưởng Công Vụ) giới thiệu các tân khoa và nói về cách thức đào tạo sinh viên Cao Học Ban Ngoại Giao. Tưởng cần ghi nhận sự kiện hai giáo sư Bắc và Huy vốn là chỗ thân t́nh không giấu sự ngưỡng mộ và quư trọng nhau. Bọn tôi rất vui mừng và hy vọng mọi chuyện rồi sẽ suông sẻ. Dịp nầy tôi lại được thay mặt anh chị em đồng khóa đọc diễn văn. Có một chút trục trặc nhỏ. Số là ông Đào Nguyên Lăng, Giám Đốc Trung Tâm Huấn Luyện Bộ Ngoại Giao chắc vốn không mấy hảo cảm với chúng tôi. Có thể là với việc trường QGHC từ nay đào tạo viên chức Bộ Ngoại Giao, vai tṛ của ông bị xuống cấp chăng. Ông ấy muốn xem trước bài diễn văn của tôi để nếu cần th́ kiểm duyệt. Tôi không chịu và ông nhượng bộ. Lời phát biểu của tôi vừa cao ngạo vừa khiêm tốn. Đại để tôi nói rằng chúng tôi được đào tạo thành những cán bộ chứ không phải là công chức ngoại giao với tinh thần dấn thân làm sáng tỏ chính nghĩa quốc gia ở nước ngoài. Kinh nghiệm và kiến thức chúng tôi c̣n yếu kém cần đến sự d́u dắt chỉ vẻ của các bậc đàn anh.
  ... (Click vào tựa đề trên để xem tiếp)


                                                          Sử Việt Nh́n Từ Bên Ngoài ... Ngô Bắc dịch và phụ chú

        Ngô Bắc là bút hiệu của Ngô Ngọc Trung Tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (ĐS17), và Đại học Luật Khoa Sài G̣n, 1972.
        Với tư cách là chuyên viên nghiên cứu tại Văn Khố Đông Dương (Indochina Archives), của rom lionsviện Institute For East Asian Studies, UC Berkeley, trong suốt thập niên 1990, ông đă thực hiện nhiều công tŕnh nghiên cứu về Việt Nam như Hạ Tầng Cơ Sở Của Giao Thông Và Viễn Thông Việt Nam, Ngư Nghiệp Và Thủy Hải Sản Việt Nam, Triển Vọng Xuất Cảng Các Loại Cây Kỹ Nghệ Của Việt Nam, Vấn Đề Chuyển Giao Công Nghệ, Giáo Dục Việt Nam, Bang Giao Hoa Kỳ - Việt Nam ...
            Ông cũng là một trong những người tham gia việc biên soạn bộ Bách Khoa Tự Điển Encyclopedia of the Vietnam War, A Political, Social, And Military History, do nhà xuất bản ABC - CLIO, Inc phát hành năm 1998. (Click vào tựa đề trên để xem tiếp)



Cá Sông

        Mặt trời có lẽ lặn từ lâu rồi. Đèn đường Châu Đốc th́ mờ mờ ảo ảo. Đèn cầu tàu không đủ sáng để thấy rơ từng đàn cá nhái dưới sông. Nhưng cứ liệu chừng mà giựt nhợ lên, cũng dính cá. Dân ở đây câu cá nhái là để giải khuây, chứ Châu Đốc là vựa cá thiên nhiên của Việt Nam, đủ loại cá quư cá ngon, đâu cần phải ăn cá nhái. Người câu cá nhái, có khi thả nhợ mà không cần giựt lên. Tôi chạnh nhớ cảnh “câu thời câu vận” của người xưa ! Hạ nguơn nghe sấm giảng mà buồn cho hoàn cảnh đất nước nội chiến triền miên. Cá ra vàm là xuôi về vạn nẽo. Bảy Núi Ba Sông, cá tha hồ bơi lội. Nhưng cá nhái không bơi đi đâu cả, lẩn quẩn quanh cầu tàu. Con vịt là loài lặn lội làm sao mà chết ch́m. Cá nhái nhỏ thó, mỏ nhọn răng nhiều nhưng có cắn ai đâu ? Người con nào đó ngây thơ thấy vịt lặn mà ngở chết ch́m nên thấy cá ĺm ḱm mới sợ nó cắn tay ! Gần bốn mươi năm qua tôi không trở lại ḍng sông xưa và con cá nhái hay con cá ĺm ḱm mỏ nhọn răng bén chỉ c̣n như những mủi tên ghim rúng tim tôi mỗi khi nhớ về Châu Phú thân thương thuở nào !
        Rời “miệt thứ” bên kia Sông Hậu để trở lại Tiền Giang với các Tỉnh ven biển Đông Hải như Bến Tre G̣ Công Trà Vinh Mỹ Tho, khi ngôi bên ḍng Sông Trúc, Sông Tra, Sông Vĩnh Hựu, Sông Bảo  Định, Sông Pantra...vào mùa gió chướng có “nước pha chè” lờ lợ mặn để câu cá ḷng tong ...
(Click vào tựa đề trên để xem tiếp)



     VĂN THƠ QGHC


 

Diển Đàn

Liên Lạc

Tel: (562) 528 - 6274
tranbachthu@quocgiahanhchanh.com

 


CHIẾN TRANH VIỆT NAM
nguyễnđứcphương


CHIẾN TRANH VIỆT NAM
trọngđạt


TƯ LIỆU


 


Trang Chính

Sinh Hoạt

Bản Tin

Tham Luận

Hoài Bảo Quê Hương

Văn Học Nghệ Thuật

Copyright @ 2005 quocgiahanhchanh.com
Webmaster@tranbachthu