1 -
TIỂU SỬ, VĂN NGHIỆP.
Nhân
lần thứ 19 ngày nhà văn nổi tiếng Lỗ Ma Ni
Constantin Virgil Gheorghiu
ĺa trần tại Paris, chúng ta cùng đọc lại
tác phẩm đầu tay tuyệt diệu của ông: Giờ
Thứ Hai Mươi Lăm xuất bản năm 1949, dầy
khoảng 450 trang. Đó là cuốn sách bán chạy
nhất Âu châu sau Thế chiến thứ hai, ngay vài
tuần lễ đầu đă bán được hơn nửa triệu cuốn,
đă được dịch ra hầu hết các thứ tiếng trên
thế giới. Truyện cũng đă một thời làm say mê
cả một lớp thế hệ Sài G̣n năm xưa thập niên
50, 60, độc giả miền Nam xa xưa đă thấy
trong tác phẩm không khí của thời binh đao
khói lửa và thân phận bi thảm của con người
thời chiến, nó rất gần với hoàn cảnh đất
nước ta thời ấy. Cuốn sách đă khiến cho
người Tây phương vô cùng xúc động hăi hùng
về những tội ác rùng rợn của quân Nga gây ra
khi họ tràn sang xâm chiếm Đông Âu.
Từ 1949
cho tới 1989 Gheorghiu đă viết và xuất bản
được 27 tác phẩm, những cuốn trước do Livia
Lamoure dịch ra Pháp văn, những truyện sau
ông viết thẳng bằng tiếng Pháp. Tác phẩm đầu
tay của Gheorghiu vẫn được coi là nổi tiếng
và thành công nhất trong văn nghiệp của ông
nhưng không hẳn là hay nhất so với 26 cuốn
ông viết sau đó.
Gheorghiu sinh ngày 15-9-1916 tại Moldavie,
Bắc Lỗ Ma Ni (Roumanie) mất ngày 22-6-1992
tại Paris. Ông học trung học từ 1928-1936,
sau đó học thần học và triết học tại đại học
Bucharest và Heidelberg, Đức, năm 1939 lấy
vợ là nữ sĩ, năm 1942, 1943 hai vợ chồng
phục vụ tại Bộ ngoại giao Roumanie ở Zagred,
xứ Croatie, phía Bắc Nam Tư. Khi quân Nga
xâm chiếm đất nước ông ngày 23-8-1944,
Gheorghiu và vợ lưu vong. Thế chiến Thứ Hai
kết thúc ông và vợ bị người Mỹ giam giữ năm
1945 mỗi người một nơi lư do kẻ thù của Nga
cũng là kẻ địch của Mỹ v́ Mỹ và Nga là đồng
minh. Hai năm sau 1947 mới được thả ra, hai
vợ chồng đoàn tụ tại Heidelberg Đức quốc.
Không thể sống tại Đức, vợ chồng ông đi bộ
sang Pháp. Trong thời gian ở tù ông viết
cuốn “Ora 25” bằng tiếng Lỗ Ma Ni, năm 1949
cho dịch ra tiếng Pháp lấy tên La
Vingt-cinquième heure (Giờ Thứ Hai Mươi Lăm)
rồi xuất bản tại Paris, được nhà văn, triết
gia Gabriel Marcel viết tựa giới thiệu và
nổi tiếng ngay.
Những
truyện của Gheorghiu viết sau 1949 có khoảng
hơn 10 tác phẩm được người đọc đón nhận,
trong đó nhiều cuốn có giá trị văn chương
cao, nhưng về sau ông chống đối Cộng Sản Nga
cực đoan, đưa chính trị vào văn chương
nhiều nên ít được chú ư. Một số tác phẩm của
ông đă được dịch ra tiếng Việt. Tôi xin giới
thiệu một số truyện hay tiếp theo cuốn đầu
tay của Gheorghiu, tác phẩm của ông không
dài lắm, riêng hai cuốn đầu dầy gần 500
trang, những cuốn sau đó chỉ vào khoảng trên
dưới 200 trang.
Năm
1952, ông viết La Seconde Chance, dầy hơn
Giờ Thứ Hai Mươi Lăm một chút, đă được Hằng
Hà Sa, Bích Ty dịch ra tiếng Việt (Lối Thoát Cuối Cùng) thập niên 50, 60, bản tiếng Việt
rất lưu loát bay bướm không thua ǵ bản
chính tiếng Pháp. Truyện không có trọng tâm
như cuốn La Vingt-cinquième heure có nghĩa
là nhiều nhân vật nhưng vai chính không nổi.
La Seconde Chance không nổi tiếng như cuốn
đầu tay Giờ Thứ Hai Mươi Lăm của Gheroghiu
nhưng có phần lôi cuốn tuyệt diệu hơn, đây
cũng là một trong những truyện hay nhất của
tác giả về thảm kịch thời hậu chiến.. Nội
dung toát ra bầu không khí kinh hoàng bao
trùm lên thân phận của những người tỵ nạn Do
Thái trốn tránh phát xít sang Sô Viết bị
ngược đăi tàn nhẫn, những cảnh trồng cây
trên xác chết tại sa mạc trong vùng Sô viết,
cảnh phát xít bách hại người Do thái trong
ḷ sát sinh… y như trong cơn ác mộng,
Gheorghiu bị ám ảnh bởi cơn ác mộng hăi hùng
Sô viết, nó cũng chính là nỗi kinh hoàng của
khối Đông Âu khởi đầu từ những ngày tàn của
cuộc Thế chiến.
L’Homme
qui voyagea seul, Người Lữ Khách Cô Đơn viết
năm 1954 dầy hơn 200 trang thể hiện tâm
trạng u uất cay đắng của tác giả khi bị
người ta kết án là bênh vực cho phát xít,
bênh vực cho kẻ thù. Ông nói kẻ thù của các
anh chứ không phải của tôi, người Đức đă
giúp chúng tôi chống lại bọn Sô viết xâm
lược dầy xéo đất nước tôi.
Năm
1957 ông viết Les Sacrifies du Danube,
Những
Kẻ Hy Sinh Vùng sông Danube, truyện ngắn
trên 100 trang thể hiện nỗi cay đắng uất hận
của những nước Đông Âu trong vùng Danube như Hung
Gia Lợi, Nam Tư, Lỗ Ma ni, Tiệp Khắc, Bảo
Gia Lợi… đă bị Tây Phương, Hoa Kỳ nhường cho
Sô Viết năm 1944, 1945. Ở cương vị người
Đông Âu, tác giả nói để cứu nền văn minh Tây
Âu, Mỹ đă nhường Đông Âu cho Sô viết khiến
cho trên 150 triệu người đă bị tan gia bại
sản, trở thành nô lệ, làm thân trâu ngựa cho
Cộng Sản Sô viết vô cùng tàn bạo. Đông Âu đă
bị làm vật hy sinh, về điểm này trong bộ
Lịch sử Thế chiến Thứ hai (Histoire de la
seconde guerre mondiale) cho biết sở dĩ Mỹ
nhường Động Âu cho Nga để nhờ Nga phụ một
tay đánh quân Nhật ở Á Châu khi mặt trận Âu
châu kết thúc v́ Nhật c̣n 5 triệu quân, cuộc
chiến có thể kéo dài khoảng hai năm nữa.
Người Mỹ quí sinh mạng lính như vàng, đối
với Cộng Sản Nga, mạng người rẻ như bèo.
Truyện ngắn thể hiện nỗi niềm cay đắng của
các dân tộc nhược tiểu, không tự quyết định
số phận của ḿnh mà phó thác cho sự mua bán
đổi chác của các siêu cường. Trước 1975 có
một cuốn sách Pháp nói về Hội nghị Yalta lấy
tên “Yalta, Ou le Partage du Monde”, Yalta
hay sự phân chia thế giới.
Truyện
xẩy ra tại Bảo Gia Lợi (Bulgarie), nó thể
hiện nỗi ám ảnh kinh hoàng của người Đông Âu
đối với bọn quỉ đỏ như sau: Một người chạy
trốn Sô Viết sang phần đất tự do bị trúng
đạn của lính biên pḥng, hai người nhân đạo
cứu anh đem về nhà, họ băng bó vết thương
cho anh. Một người ứa nước mắt bảo vết
thương đă có ḍi, người kia đề nghị đi t́m
bác sĩ hoặc đưa nạn nhân đi nhà thương nhưng
anh này gạt đi bảo: “Nếu t́m bác sĩ th́ rồi
bọn công an cũng sẽ biết, sẽ t́m đến đây,
người nạn nhân này sợ công an c̣n hơn là sợ
ḍi bọ, chẳng thà để hắn chết v́ ḍi bọ đục khoét
c̣n hơn để hắn sa vào tay bọn an ninh, mật
vụ”
Năm
1960 ông viết La Cravache, Chiếc Roi Ngựa,
truyện dầy gần 200 trang. Người đọc có cảm
tưởng như cốt truyện diễn ra trong khoảng ba
bốn năm trời dài đằng đẵng nhưng đến khi kết
thúc mới biết tất cả chỉ xẩy ra trong ṿng
24 tiếng đồng hồ, Gheorghiu như muốn cho
độc giả thấy thiên tài vượt bực có một không
hai của ḿnh. Đó là ngày 23-8-1944, ngày dài
nhất của lịch sử nước Lỗ Ma Ni khi xích sắt
của xe tăng Nga tràn qua nghiền nát quê
hương Gheroghiu mang theo biết bao tội ác dă
man ghê rợn, đó cũng là ngày kinh hoàng nhất
của lịch sử đất nước ông trong cảnh hoang
tàn v́ cướp bóc, bắn giết, hăm hiếp man rợ …
của quân xâm lược diễn ra khắp nơi khởi đầu
cho 45 năm nô lệ của người dân nước Lỗ.
Năm
1958 Gheorghiu viết Les Mendiants de
miracles, Những Kẻ Ăn Mày Phép Lạ, khoảng
200 trang, bối cảnh Phi châu, tác giả luận
về chính trị nhiều.
Năm
1961 viết Perahim, truyện có vẻ cải lương
nhưng cũng khá nổi tiếng .
2 -
LUẬN ĐỀ TÁC PHẨM.
Những
truyện kế tiếp của Gheorghiu, mặc dù nhiều
cuốn có nội dung sâu sắc, lôi cuốn kỳ diệu
nhưng vẫn không thể làm lu mờ được tác phẩm
đầu tay, Giờ Thứ Hai Mươi Lăm vẫn là tác
phẩm tiêu biểu của Gheorghiu. Đây là cuốn
tiểu thuyết luận đề, Gheorghiu với tư cách
nhân chứng của thời đại cho rằng nền văn
minh máy móc đă hủy hoại nhân phẩm, giá trị
con người xuống hàng số không. Tác phẩm đầu
tay của ông cũng thể hiện phần nào cuộc đời
tác giả, trong đó nhân vật Traian, văn sĩ
người viết cuốn Giờ Thứ Hai Mươi Lăm là h́nh
ảnh của C.V. Gheorghiu.
Xin Sơ
lược
“Tại ngôi làng Fantana hiền ḥa xứ Roumanie,
Moritz, chàng nông dân chất phác có người
yêu Suzanna, con gái một địa chủ giầu có tàn
ác, không được cha chấp nhận cuộc hôn nhân
nàng đă trốn theo Moritz. Anh nhờ Traian,
văn sĩ, con mục sư Koruga (Chính Thống giáo)
giúp đỡ tiền bạc đă mua đất, làm nhà, có hai
con, Traian đang viết dở cuốn sách lấy tên
Giờ Thứ Hai Mươi Lăm. Gia đ́nh yên ấm, sóng
gió bỗng dưng nổi lên, gia đ́nh ly tán. Tên
trưởng đồn cảnh binh làng Fantana muốn trăng
hoa cô vợ trẻ Suzanna bèn làm giấy đưa
Moritz đi đào kênh pḥng thủ để hắn ở nhà dụ
dỗ nàng. Một sự xui xẻo, ở trại tập trung
người ta ghi nhầm anh là gốc Do thái, thế
là chàng không hy vọng ngày về. Ở nhà
Suzanna phải làm giấy ly dị để giữ căn nhà,
nàng vẫn chờ đợi Moritz.
Chàng
được đưa tới trại khác, tại đây một ông bác
sĩ cùng năm người Do thái hối lộ trưởng trại
để trốn qua Hung gia Lợi. Bác sĩ cho Moritz
theo để khiêng đồ dùm ông. Mục sư và con
trai Traian lo khiếu nại cho Moritz nhưng
không có kết quả. Eleonora, người yêu của
Traian gốc Do thái vội kết hôn với chàng để
có chỗ tựa v́ chàng người nước Lỗ.
Sau khi
sang Hung, ông bác sĩ và năm người bạn Do
thái được giúp đỡ làm giấy tờ qua Mỹ tỵ nạn,
Moritz ở lại bị công an bắt dọc đường về bót
điều tra, họ nghi chàng được đưa sang Hung
làm t́nh báo gián điệp rồi tra tấn dă man
anh đến ngất xỉu, Moritz khai thật nhưng họ
không tin vẫn đánh đập chàng hết ngày này
sang ngày khác. Đức quốc xă ép Hung giao năm
chục ngàn người sang làm nhân công, chính
phủ Hung lựa người Do thái, bọn tù, tội phạm
để giao cho Đức. Moritz được người Hung thả
ra rồi đưa sang Đức làm lao nô, các nước
khác cũng phải giao người cho Đức, giá trị
con người không c̣n nữa.
Một hôm
Moritz được gọi lên văn pḥng để làm thông
dịch viên tiếng Balkan, nhân dịp Đại Tá Đức
Muller thuộc sở O.K.W tới, ông ngắm nghía
Moritz và quả quyết chàng thuộc ḍng giống
anh hùng, ḍng Đức thuần chủng, chàng là một
kiểu mẫu hoàn hảo. Moritz được đưa vào quân
đội, binh chủng SS rồi chàng trở thành lính
gác coi tù. Moritz tưởng Suzanna ly dị chàng
nên tái giá, lấy cô y tá Đức Hilda có một
con trai với cô. Tại làng Fantana, cha chàng
chết bệnh. Hàng ngày Moritz dẫn năm người tù
binh Pháp đi làm cầu, họ rủ anh trốn và
thuyết phục măi, cuối cùng Moritz trốn theo
họ sang vùng Mỹ kiểm soát.
Quân Nga
chiếm Roumanie, đàn bà bị hăm hiếp, đàn ông
bị bắt bớ đánh đập, bị bắn chết, nhiều người
trốn vào rừng kháng chiến. Quân Nga lập ṭa
án nhân dân xử tử khoảng mười người gồm mục
sư Koruga, quản đồn cảnh binh, tám người nhà
giầu… Mẹ Moritz và vợ chàng Suzanna vô rừng
t́m xác mục sư, ông chưa chết, được hai mẹ
con bà cứu giao cho quân Đức đi ngang qua
chở về Đức. Mẹ Moritz bị quân Nga giết v́
cứu mục sư, Suzanna bế con bỏ làng trốn.
Quân
Nga tiến vào Đức, cha Suzanna nay là sĩ quan
Đức lại nhà Hilda (vợ thứ hai Moritz) cạo
râu, thay quân phục chào quốc trưởng rồi tự
sát, Hilda theo lời dặn của ông tưới săng
đốt xác ông nhưng nàng và con bị chết cháy
theo. Traian (con mục sư Koruga) và vợ đi
bộ 200 dặm để tới tỉnh Weimar thuộc Mỹ nhưng
bị bắt giam v́ là dân nước nghịch Roumanie.
Traian được chở tới trại giam thuộc khu do
Mỹ kiểm soát, trại tù này nằm giữa cánh đồng,
chứa mười lăm ngàn người (15,000) tại đây
chàng gặp lai Moritz, mặc dù đă cứu được năm
người tù binh, họ vẫn không tin anh và giam
anh lại, Moritz đă bị lưu đầy trong 14 trại
giam.
Sau
lại chuyển trại, gặp lại mục sư Koruga, ông
được quân Đức đưa vào bệnh viện cứu chữa và
cưa hai chân nay chống nạng bị quân Mỹ giam
tại đây. Moritz gặp lại ông bác sĩ cùng trốn
với anh từ trại giam Lỗ Ma Ni sang Hung Gia
Lợi, sau ông đi Hoa Kỳ bây giờ là trung úy
quân y của Mỹ, ông nói không giúp ǵ được
chàng mà chỉ có thể cho đồ ăn, thuốc lá.
Moritz nhận được thư của mẹ Hilda, vợ thứ
hai được biết nàng chết cháy cùng đứa con
trai bà đă chôn hài cốt rồi, mục sư cho biết
Suzanna vẫn chung thủy chờ anh, anh hối hận
đă tái giá với Hilda, mục sư thuyết giảng
cho con ông rồi chết trong tù, trại này giam
hai chục ngàn người.
Traian
tuyệt thực phản đối trưởng trại cho mang xác
mục sư Koruga mà không cho anh theo dự để
xem ông có được làm phép theo Chính thống
giáo không. Phóng viên Mỹ đến thăm, họ đưa
Traian đi nơi khác để che dấu v́ chàng sẽ
nói sự thật. Tù nhân chết đói hàng ngày.
Traian tuyệt thực, họ đưa anh vào nhà thương
điên, anh làm nhiều đơn từ họ không xét,
Train chống lại nền văn minh máy móc, nó
tiêu diệt con người, rồi chàng được thả ra
khỏi nhà thương điên. Traian cho Moritz cái
tẩu thuốc và đưa đôi kính đeo mắt cho Moritz
nhờ anh sau này trao cho vợ chàng tức
Eleonora. Traian thản nhiên đi ra cổng chính,
càng ngày càng gần hàng rào kẽm gai, bọn tù
hồi hộp theo dơi, người lính gác bấm c̣ hai
lần, phát thứ hai khiến Traian ngă gục,
chàng đi t́m cái chết.
Bốn
ngày sau Traian chết, Moritz nhận được thơ
Suzanna, nàng kể lại những ngày gian truân,
bị quân Nga hăm hiếp nhiều phen, có đứa con
với chúng, nàng xin tha thứ. Moritz được gọi
đi Nuremberg xét xử, cuối cùng được thả về
xum họp với Suzanna, Moritz cũng gặp lại vợ
Traian Eleonora, anh trao cho chị ta kính
đeo mắt của Traian”.
Giờ Thứ
Hai Mươi Lăm là cuốn tiểu thuyết luận đề thể
hiện niềm sợ hăi sự diệt vong của loài người,
hậu quả do xă hội kỹ thuật máy móc mang lại.
Một xă hội máy móc, tôn sùng kỹ thuật có
nguy cơ tận diệt nhân loại. Moritz, Traian,
Koruga.. những nạn nhân của xă hội máy móc,
những con người vô tội nhưng đă phải cam
chịu nhiều oan khiên đầy đọa vô cớ, nhất là
Moritz, người thể hiện thân phận bi đát nhất
của thời đại máy móc mà giá trị con người đă
xuống thấp đến chỗ không c̣n ǵ cả. Một nông
dân chất phác, hiền lành như anh, con người
hoàn toàn vô tội bị kẻ gian hăm hại, đi đào
kênh. Moritz bị ghi nhầm là Do thái trong
danh sách đưa tới gia đ́nh tan nát, trốn
sang Hung bị công an tra tấn dă man v́ t́nh
nghi làm gián điệp, bị bán cho phát xít Đức,
được chúng cho vào lính, coi tù rồi cứu được
năm người tù binh Pháp nhưng vẫn bị Mỹ giam
cầm hết trại tù này sang trại tù khác. Khi
chiến tranh chấm dứt, anh chỉ thấy toàn là
trại giam, những hàng rào kẽm gai…
Hậu quả
của văn minh máy móc là sự tiêu diệt xă hội
loài người, đó là ngày tận thế, Giờ thứ hai
mươi lăm. Nhân vật Traian trong truyện,
người viết cuốn Giờ Thứ Hai Mươi Lăm, cho
biết đó là giờ mà mọi cấp cứu đều vô vọng,
dù Chúa Cứu thế ra đời cũng không không thể
cứu văn được, đó không phải là giờ chót mà
giờ kế sau giờ cuối cùng. Giờ của xă hội,
văn minh Tây phương.
Theo
Gheroghiu văn hóa Tây phương không c̣n quí
trọng con người nên sẽ bị diệt vong, xă hội
kỹ thuật khinh rẻ con người khiến giá trị
con người ngày càng giảm nhất là tại Nga,
con người c̣n rẻ hơn nữa. Moritz đă bị Hung
Gia Lợi bán cho Đức quốc xă làm nô lệ đổi
lấy một thùng đạn, khi ấy Moritz nghĩ ḿnh
sẽ làm nô lệ suốt đời. Sang Đức làm lao nô
trong một nhà máy sản xuất quốc pḥng,
Moritz được người ta nói máy móc là một
người thợ hoàn hảo nhất, ta phải học nó để
làm việc, nó dậy ta kỷ luật, trật tự, sự
hoàn chỉnh… Moritz sợ máy móc và sợ những
con người giống máy móc, văn sĩ Traian nói
với vợ: “Tây phương tạo lên một xă hội
giống như cái máy và con người sống trong
xă hội phải thích ứng theo luật lệ của máy
móc, họ tưởng là thành công nhưng thực ra đă
giết lần ṃn con người khi họ buộc con người
phải theo những luật lệ đă chi phối cái ô tô,
đồng hồ, đối với xă hội kỹ thuật, con người
coi như không có”
Traian
làm đơn thỉnh cầu cho Moritz, anh ta vô tội,
không trộm cắp, giết người, lường gạt, không
phạm tội trước luật pháp cũng như giáo hội
nhưng bị bắt giam vô cớ hết ngày này sang
ngày khác, đă bị lưu đầy trong mười bốn trại
giam. Suốt đời chàng chỉ có một ước mơ tầm
thường là được yên ổn làm ăn, nuôi sống gia
đ́nh nhưng như vậy là có tội? Moritz đă giúp
năm người tù binh vượt khỏi trại giam phát
xít, như vậy là có tội chăng?
Traian
hỏi người sĩ quan Mỹ thẩm vấn chàng lư do họ
bắt ḿnh, ông ta nói v́ anh là một công chức
nước Roumanie, thù nghịch của Mỹ và đồng
minh, chiếu theo luật lệ vợ công chức cao
cấp của nước thù nghịch cũng bị bắt, mục sư
Koruga cha Traian bị bắt v́ là công chức
nước nghịch, luật pháp nào cũng nghiêm minh
cả. Người Mỹ cho rằng khi họ coi con người
chỉ là một loại hạng, thành phần là một cách
giải quyết công b́nh và nhanh chóng nhất,
nay chúng ta đang ở thời kỳ toán học và khoa
học chính xác không thể v́ lư do t́nh cảm,
t́nh cảm chỉ là sản phẩm của thi nhân, thần
học. Traian kết án đó là một phương pháp vô
nhân đạo, xóa bỏ con người.
Hai
chục ngàn tù nhân bị giam theo thủ tục pḥng
hờ, khi cần một phạm nhân chỉ cần bấm số là
ra ngay, khỏi phải chạy t́m kiếm mất th́
giờ, con người đă ở trong guồng máy phải
chờ giống như một sợi chỉ đă luồn trong máy
dệt không thể lấy ra được mà phải chờ khi nó
ra khuôn. Tù nhân bị giam giữ vô cớ hết năm
này sang năm khác không c̣n tin tưởng vào
công lư loài người, nó đă biến mất trên thế
gian này.
Tâm tư
của nhân vật Traian thể hiện luận đề của tác
phẩm, chàng chính là h́nh ảnh của tác giả
Gheorghiu. Traian nói xă hội kỹ thuật Tây
phương không c̣n hợp với đời sống cá nhân v́
nó bóp chết con người, loài người sẽ phạm
tội nặng, xă hội ấy sẽ bị diệt vong như bao
xă hội khác trong lịch sử.
Xă hội
Tây phương hy sinh con người cho lư thuyết,
cho kế hoạch, nó đă tiêu diệt con người, nó
t́m hiểu và nâng cao đời sống con người bằng
những con số toán học và thống kê. Các luật
lệ máy móc, hoạt động của cơ giới không bao
giờ tạo được ư nghĩa cho đời sống con người
khi ấy đời sống con người sẽ tiêu vong.
Và rồi
Traian đi t́m cái chết, người ta cho anh chỉ
là người điên quẫn chí, nhưng anh đă phản
kháng lại nền văn minh máy móc và đem xác
thân ra để đ̣i công bằng công lư cho cá nhân
ḿnh, cho Moritz cũng như cho hàng vạn người
bị giam cầm oan uổng. Họ đă là nạn nhân của
một nền văn minh chỉ biết coi con người như
những con số, đă đưa giá trị con người xuống
hàng số không.
3 -
CƠN ÁC MỘNG SÔ VIẾT
Một
khía cạnh bi đát thứ hai của thân phận con
người thời chiến tranh máy móc được
Gheorghiu diễn tả một cách chân thực nhất,
nó đă khiến cho thế giới Tây phương thời hậu
chiến vô cùng sững sờ kinh ngạc trước sự tàn
bạo dă man của Hồng quân Sô viết khi họ tràn
qua làm cỏ Đông Âu.
Ngày
23-8-1944 khi chiến xa và bộ binh Nga vượt
biên giới chiếm Lỗ Ma Ni, dân làng Fantana
hốt hoảng ghê sợ bọn ngọai xâm vô cùng tàn
ác, nhiều người trốn vào rừng kháng chiến
không để giặc bắt. Quân Nga thả tù và dùng
bọn tay sai thân Cộng Sản lập ṭa án nhân
dân xử tử h́nh mục sư Koruga, trưởng đồn an
ninh, và tám người nhà giầu…. Tiếp theo sau
chân quân Nga là những chuyện kinh hoàng:
đàn bà bị hăm hiếp, đàn ông bị đánh dập
ngoài đường phố, ngoài chợ …cướp bóc bắn
giết ngay giữa ban ngày y như quân Hung Nô
Mông cổ từ châu Á tràn sang làm cỏ châu Âu
từ những thế kỷ xa xưa.
Cộng
quân đi tới đâu người dân chạy như vị đến
đấy, họ đều chạy trối chết để xa lánh bọn Sô
viết ác ôn để sang phía Mỹ, phía Anh hay
Pháp. Họ không nghĩ đi đường nào mà chỉ nhắm
mắt chạy trốn Hồng quân, trốn sự tàn bạo dă
man, trốn cảnh khủng bố giết chóc tra tấn
của chúng. Họ nhắm hướng nào không có quân
Nga và nhắm mắt chạy về hướng ấy không bao
giờ quay gót trở lại v́ phía sau lưng họ chỉ
toàn là cảnh tối đen như mực và đẫm máu, sau
lưng họ là chém giết, họ ôm chầm lấy vùng
đất không c̣n bóng dáng quân Nga. Những
người tỵ nạn không cần biết đó là nơi nào
miễn là chạy thoát khỏi tay bọn sát nhân Sô
viết.
Người
ta thường nói một bức h́nh bằng ngh́n lời
nói, nhưng với bút pháp điêu luyện tuyệt
vời của Gheorghiu một bức thư đă trị giá
bằng một vạn, một trăm ngh́n lời nói như
trong vài trang giấy của Suzanna gửi cho
chồng Moritz khi anh sắp được trả tự do.
….Suzanna nói chắc anh tưởng em đă chết, đă
chín năm trôi qua chúng ta không có tin tức
nhau nay nhờ Hội Hồng thập tự em bèn gửi thư
cho anh, ḷng em bao giờ cũng nghĩ anh vẫn
c̣n sống, em xin cầu nguyện Đấng thiêng
liêng che chở phù hộ cho anh v́ anh chưa làm
ǵ nên tội.
Nàng
nói trong chín năm qua biết bao chuyện đă
xẩy ra, hiện nay em ở nước Đức, hôm anh bị
bắt đi em vẫn nghĩ anh sẽ được trở về v́ thế
đêm nào, ngày nào em cũng mong thấy anh trở
về. Ít ngày sau người trưởng đồn cảnh binh
cho biết anh là Do thái, hắn sẽ tịch thu nhà
cửa, em phải kư giấy ly dị để giữ nhà nhưng
em vẫn chờ anh như trước.
Nàng kể
tiếp, khi quân Nga đến chúng bắn mục sư
Koruga và mấy người khác, em và mẹ anh đă
lôi mục sư ra đường, ngài chưa chết, em và
mẹ đă giao cho đoàn xe nhà binh Đức chở ngài
đi. Hôm sau mẹ bị bọn tay sai Nga bắn chết
v́ cứu mục sư, em phải dẫn con trốn khỏi
làng sợ chúng giết, em chạy xa đến tận nước
Đức. Quân Nga bắt được em, chúng cho các con
bánh ḿ, kẹo và quần áo, bốn ngày sau em bị
bệnh th́ một bọn lính Nga tông cửa vào nhà
t́m đàn bà con gái, chúng bắt em và cô con
ông chủ nhà mới mười bốn tuổi, chúng bắt tụi
em uống rượu và cưỡng hiếp chúng em cho đến
sáng.
… em
kể lại cho anh nghe chuyện ấy v́ em không
muốn dấu anh điều ǵ, em ngất xỉu khi tỉnh
dậy th́ các con khóc như ri, đêm sau bọn
lính trở lại hăm hiếp chúng em. Hôm sau em
trốn xuống hầm nhưng chúng cũng t́m được và
lại làm chuyện tồi bại như mọi khi, hai tuần
liên tiếp dù trốn ngoài vườn, bên những nhà
lân cận chúng cũng đều t́m được em và cưỡng
hiếp em trước mắt các con. Em định tự tử cho
xong nhưng nghĩ tới các con, nếu em chết
chúng sẽ bơ vơ xứ lạ nên bỏ ư định quyên
sinh nhưng khi ấy em tự coi như đă chết rồi.
Suzanna
kể tiếp … em phải lánh xa quân Nga, chạy
trốn về vùng chiếm đóng của quân Anh hay Mỹ
nhưng dọc đường quân Nga bắt được em nhiều
lần, hăm hiếp em trước mắt trẻ con, đàn bà
con gái nào bị chúng bắt được đều chịu chung
số phận. Trước khi vào được vùng do Anh kiểm
soát bọn Nga giữ em lại ba ngày và hăm hiếp
em ngày đêm, lần chót này em có thai với
chúng nay đă năm tháng ..
…. ḿnh
có thể tha thứ cho em được không, ḿnh c̣n
nh́n nhận em là vợ nữa hay không ? em khóc
ṛng khi viết thư này và chờ tin anh…
Chuyện
lính Nga hăm hiếp đàn bà dă man tại các nước
Đông Âu nay cũng chẳng xa lạ ǵ, sáu năm
trước đây, phim ảnh, sách báo đă tố cáo năm
1945 có tới hai triệu phụ nữ Đức bị quân Nga
hăm hiếp nhưng bức thư của Suzanna vẫn gây
xúc động hơn bao giờ hết, sau thế chiến nó
đă khiến Tây phương vô cùng kinh ngạc, người
ta không thể ngờ quân Nga mọi rợ dă man đến
thế.
Gheorghiu thể hiện nỗi ám ảnh sâu xa của
người Đông Âu với chế độ độc tài Sô viết
cũng như niềm cay đắng oán hận Hoa kỳ, Tây
phương đă bán đứng Đông Âu cho quỉ đỏ để họ
phải làm thân nô lệ cho Cộng Sản một nửa
thế kỷ qua.
4 -
KẾT LUẬN
Gheroghiu, một thiên tài hiếm hoi của thế kỷ
với bút pháp kỳ diệu khác thường, với những
ḍng chữ giản dị ông đă diễn tả được những tư tưởng thật cao. Mặc dù là bi kich, nhưng
ông vẫn luôn dí dỏm, chua chát, trong lịch
sử văn chương cận đại thật chưa có tác phẩm
nào thể hiện thân phận bi đát và hố thẳm của
loài người như thế ngoài cây bút Gheorghiu.
Tác giả
có cảm t́nh với Đông phương, ông nói xă hội
kỹ thuật Tây phương tạo được tiện nghi cho
con người nhưng không tạo được linh hồn trí
óc. Khi xă hội kỹ thuật sụp đổ, những giá
trị nhân bản sẽ được tái sinh, ánh sáng sẽ
rọi từ Đông phương, từ Á châu, họ sẽ thu
phục làm chủ xă hội kỹ thuật nhưng không
làm nô lệ máy móc và tôn thờ nó như ở Tây
phương. Họ sẽ làm chủ máy móc bằng trí khôn
của họ như một người nhạc trưởng. Mục sư
Koruga kể cho viên sĩ quan Mỹ nghe một đoạn
ngắn trong Lăo Tử Đạo Đức kinh (chương 31)
để diễn tả tinh thần nhân bản của Đông
phương:
“Thắng cũng chẳng hay ǵ. Dù có hay đi nữa. Chỉ là
thích chém giết. Kẻ ham chém giết. Ắt chẳng
thu phục nhân tâm. (Nguyên
văn: Thắng nhi bất mỹ. Nhi mỹ chi giả. Thị
lạc sát nhân. Phù lạc sát nhân giả. Tắc bất
khả dĩ đắc chí ư thiên hạ hĩ)”
Quân
Nga đă gần tới, người sĩ quan Đức thất trận,
cạo nhẵn râu ria, mặc quân phục mới chỉnh
tề, đeo huy chương đầy ngực, dơ tay chào
Quốc trưởng rồi tự sát, ông đă làm xong
nhiệm vụ cuối cùng của đời ḿnh. H́nh ảnh
anh hùng và quá đẹp của một sĩ quan Quốc xă
lúc thất trận cho thấy Gheorghiu có cảm t́nh
với họ, đó cũng là điểm khiến tác giả bị
người ta chỉ trích ông thân phát xít.
Nhân
vật của Gheroghiu ở đây có tính biểu tượng
hơn là hiện thực, để diễn tả luận đề về
thân phận bi đát của con người ở nhiều chỗ
độc giả thấy nó gượng ép mất tự nhiên: Lưu
lạc bao nhiêu năm tại nhiều nước cuối cùng
Moritz, mục sư Koruga, văn sĩ Traian.. lại
gặp nhau trong trại giam của Mỹ tại Đức..
cuối truyện Moritz gặp lại Eleonora, vợ
Traian và trao lại cho bà chiếc kính đeo
mắt của chồng.
Dù vậy
Giờ Thứ Hai Mươi Lăm vẫn là cuốn tiểu thuyết
diễn tả được thân phận bi thảm nhất của con
người trong một nền văn minh kỹ thuật thời
chinh chiến. Bi kịch lại được kết thúc
happy – ending hạnh phúc. Suzanna mười mấy
năm chung thủy chờ chồng, trong ngày hội ngộ,
Suzanna mặc chiếc áo dài xanh mà nàng đă mặc
mười ba năm trước khi bỏ nhà trốn theo
Moritz. Chiếc áo này nàng đă mang trên người
mấy tuần khi hai người yêu đương hạnh phúc
bên nhau với mối t́nh đẹp đẽ trong đời.
Chiếc áo này vợ chồng nàng rất thích và cho
là đẹp nhất, Suzanna đă cất dấu nó mười mấy
năm qua, đi đâu nàng cũng mang nó theo bên
ḿnh. Nàng thề khi nào chàng về tới cửa mới
đem áo xanh ra mặc, nàng ṃn mỏi chờ chồng
mười mấy năm đằng đẵng nay mới đem ra mặc để
kỷ niệm những ngày đầu tiên của cuộc đời phu
thê. Moritz thấy nàng không thay đổi nhiều,
da nàng có nhăn, tóc đă bạc mầu nhưng nàng
vẫn như xưa, vẫn như trong cuộc t́nh nồng
thắm bên đồng cỏ làng Fantana khi họ c̣n son
trẻ.
Năm
1967 Giờ Thứ Hai Mươi Lăm đă được quay thành
phim, nhà sản xuất Ư Carlo Ponti và đạo diễn
Pháp Henri Verneuil thực hiện, hăng MGM phát
hành. Tài tử nổi tiếng Mỹ gốc Mễ Anthony
Quinn đóng vai Moritz, Virna Lisi vai
Suzanna, Liam Redmond vai mục sư Koruga,
Serge Reggiani vai Traian. Phim dài đúng 2
giờ, cũng có cái hay riêng nhưng nói chung
điện ảnh chỉ diễn tả được phần nào tác phẩm,
nhà đạo diễn chỉ kể lại một phần cốt truyện
mà không nói lên được hết ư nghĩa của nó.
Những người đă đọc truyện không thỏa măn với
phim, họ cho là làm mất hết cái hay của tác
phẩm. Tuy nhà đạo diễn có làm khác đi nhưng
cũng thể hiện được bi kịch cuộc đời Moritz
bằng những h́nh ảnh sống động. Nhạc hay cảnh
đẹp, mầu sắc lộng lẫy, mặc dù dựa theo một
cuốn tiểu thuyết bất hủ và ăn khách, phim
không nổi tiếng lắm và cũng không được giải
thưởng nào. Diễn xuất của Anthony Quinn nổi
bật nhất so với các vai khác.
Nghệ
thuật của Gheorghiu cho tới nay vẫn c̣n mới
lạ, những h́nh ảnh biểu tượng của ông đă
diễn tả một cách hiện thực nhất, bi đát nhất
t́nh trạng hăi hùng bên bờ vực thẳm mà loài
người đang vươn tới. Giờ Thứ Hai Mươi Lăm
nay đă thành một từ quen thuộc, được nghe
nhắc đến rất nhiều, người ta thường hiểu đó
là những giờ phút cuối cùng nhưng theo ư
nghĩa của luận đề trong tác phẩm nó là giờ
sau giờ chót, giờ tận thế mà con người đang
tiến đến.
Thấm
thoắt đă nửa thế kỷ trôi qua, Giờ Thứ Hai
Mươi Lăm vẫn là một trong những cuốn tiểu
thuyết tuyệt vời nhất, hàng trăm năm mới có
tác phẩm hay như vậy.
Trọng Đạt |