Dạ
Cổ Hoài Lang và ông Sáu Lầu
Thuở nhỏ tôi
vẫn thường nghe hai cái danh từ khá lạ tai, nghe riết rồi trở thành quen
đi trong trí nhớ. Tôi muốn nói đến hai cụm từ ngữ "Dạ Cổ Hoài Lang" và
"ông Sáu Lầu". Vậy th́ hai cụm từ này mang ư nghĩa như thế nào trong nền
văn hóa Việt Nam? Tôi muốn gom ư muốn t́m hiểu của tôi để làm tựa đề cho
bài viết này. Bài viết sẽ được bàn về chủ đề này cũng như những điểm về
Cổ
nhạc Nam phần như sau:
Ông Sáu
Lầu là ai ?
Tham khảo sách "Nghệ Thuật Sân Khấu" của tác giả Trần Văn Khải và bài viết
"Dạ Cổ Hoài Lang - Một Xuất Xứ Buồn" của giáo sư Trần Văn Khê, viết tại
Paris th́ ông có tên họ là Cao văn Lầu, sanh năm 1890 tại xă Thuận Lễ,
tỉnh Tân An. Năm lên 6 tuổi, theo cha về Bạc Liêu. Ông Sáu Lầu sáng tác
nhiều tác phẩm, nhưng tác phẩm "Dạ Cổ Hoài Lang" đă thật sự rung động tâm
tư khán thính giả nhiều nhất khi nghe.
Ư Nghĩa
của "Dạ Cổ Hoài Lang":
Bản vọng cổ, trước hết có tên là Dạ Cổ, do ông Sáu Lầu sáng chế vào khoảng
các năm 1919 hay 1920, tức ba năm sau khi cải lương ra đời. Khi đó tác giả
được 30 tuổi khi ông chế bản vọng cổ. Vào thời điểm mà ông lập gia đ́nh,
nhưng chẳng may lại không có mụn con nào nối dơi tông đường nên bà mẹ buộc
ông phải cưới vợ khác v́ sợ tuyệt tự. Ông buồn rầu không c̣n thiết tha
trong cuộc sống, chính tâm sự ưu sầu đó khiến ông cho ra tác phẩm bất hủ
này. Ban ngày ra ngoài đồng ruộng t́m sự thanh thản, ông nghiền ngẫm những
lời vợ ông nói với ông trước khi chia tay, ông vốn biết đờn cổ nhạc nên
trong tâm trạng của người chồng đau khổ trước hoàn cảnh cuộc hôn nhân vợ
chồng sẽ phải chia ly, ông hứng khởi tạo ra bản nhạc 20 câu gọi là "Dạ Cổ
Hoài Lang", nghĩa là đêm khuya nghe tiếng trống thúc mà nhớ chồng, để ám
chỉ đến kỷ niệm bi thương của tâm sự ḷng hay những lời t́nh tự của vợ ông
trao cho ông.
Có lẽ v́ Cao Xanh không phụ người có thiện tâm, nên sau khi ông sáng tác
bản vọng cổ này rồi, ít lâu sau vợ ông thụ thai và ông bà có được sáu
người con.
Năm 1953 trong bài viết của tờ báo Dân Mới trả lời cuộc phỏng vấn của kư
giả Thanh Cao, khi Thanh Cao hỏi ông Sáu Lầu ngày chào đời bản Vọng cổ,
xin cho biết năm nào đă sáng tác. Ông Sáu Lầu trả lời: "Tôi không nhớ rơ
đă được bao nhiêu lâu, nhưng chỉ nhớ năm ấy tôi được 29 tuổi và bây giờ
tôi đă lên 63". Báo đăng bài phỏng vấn năm 1953, khi ông 63 tuổi tức là
ông chào đời năm 1890. Và năm ông sáng tác bài Dạ Cổ Hoài Lang chính xác
là năm 1919, vào lúc ông mang tâm trạng khủng hoảng tâm lư, trong hoàn
cảnh bi thương bị mẹ bắt buộc phải ly dị với vợ ông sau 8 năm chung sống,
v́ lư do bà vợ không sanh được con như đă bàn phần trên. Về sau này bản
"Dạ Cổ Hoài Lang" được đổi tên là "Vọng Cổ Hoài Lang", tức trông mối t́nh
xưa mà nhớ đến chồng. Sau đây là bài Vọng Cổ Hoài Lang nguyên thủy của ông
Sáu sáng tác năm 1920:
Dạ Cổ
Hoài Lang
(nhịp đôi)
"Từ là từ
phu tướng
Bửu kiếm
sắc phong lên đàng
Vào ra
luống trông tin chàng
Đêm năm
canh mơ màng
Em luống
trông tin nhạn
Ôi, gan
vàng quặn đau
Đường dầu
xa ong bướm
Xin đó
đừng phụ nghĩa tào khang
C̣n đêm
luống trông tin bạn
Ngày mỏi
ṃn như đá vọng phu
Vọng phu
vọng, luống trông tin chàng
Ḷng xin
chớ phụ phàng
Chàng hỡi
chàng có hay
Đêm thiếp
nằm luống những sầu tây
Biết bao
thuở đó đây sum vầy
Duyên sắt
cầm đừng lợt phai
Thiếp
cũng nguyện cho chàng
Nguyện
cho chàng hai chữ b́nh an
Mau trở
lại gia đàng
Cho én
nhạn hiệp đôi"
Trích dẫn nguyên bản lời bài "Đêm nghe tiếng trống nhớ chồng" của ông Cao
văn Lầu (1892-1976) tức soạn giả Sáu Lầu, bài hát tiền thân của bản Vọng
Cổ ngày nay.
(Trích sách "Nghệ Thuật Sân Khấu" của Trần Văn Khải)
Bài vọng cổ trên đây chỉ có 2 nhịp, sau này các nhạc sĩ sáng tác đă tăng
lên thành 4, 8 rồi 16 nhịp. Ca sĩ cải lương cần phải có làn hơi dài th́
mới có thể chạy theo những bài hát đa nhịp này, v́ thế họ cần luyện tập
cho ḿnh một làn hơi càng dài th́ giọng ca càng "mùi" và càng được khán
thính giả thích thú hơn.
Đôi ḍng
về Cổ nhạc Nam phần:
Tôi có người bạn gốc Mỹ Tho, anh Dương Bé, sanh trưởng và lớn lên ở miệt
lục tỉnh, nhưng anh sang Âu châu du học. Sau khi mất miền nam, anh sang Mỹ
định cư. Dù sống ở xứ ngoài khá lâu, nhưng cổ nhạc đă thấm vào ḍng huyết
quản của anh. Một hôm anh rủ tôi đi ăn trưa, anh thuyết giảng cho tôi nghe
thật nhiều về cải lương, lịch sử cổ nhạc mà anh đă nghiên cứu qua bao năm,
tôi phục anh vô cùng. Dù mang sở học Âu Mỹ, nhưng tâm hồn anh vẫn là người
Việt Nam thuần túy như thuở của miệt lục tỉnh ngày xưa.
Sau đây
là những điều được ghi nhận trong hàng loạt bài viết của anh Dương Bé:
"Cải lương tuy đă có trước khi bài Vọng Cổ ra đời nhưng nhờ bài hát nầy mà
nó đă biến thể, thu hút giới thưởng ngoạn nhanh chóng và đông đảo hơn. Một
tuồng cải lương, về kỷ thuật, là một tổng hợp của nhiều bài bản cổ nhạc
dựa theo nội dung cốt truyện. Tuy nhiên, dù vở tuồng thuộc bất cứ thể loại
nào: bi thảm, hài hước, xă hội, dă sử hay hương xa, nó đều phải có ít nhất
một bài Vọng Cổ ở mỗi màn. Bắt buộc không thể thiếu. Nếu do đào kép nổi
tiếng thủ diễn th́ họ phải hát Vọng Cổ vài lần (thường là lúc chia tay và
khi tái ngộ). Thật cũng không ngoa nếu nói cải lương nhờ Vọng Cổ mà đi sâu
vào dân chúng, từ giai cấp trí thức đến tầng lớp b́nh dân, và Vọng Cổ cũng
nhờ cải lương mà có một địa vị bất tử trong ḷng người dân từ Bắc vô Nam.
Cổ nhạc Nam phần có rất nhiều bài bản: Xàng Xê, Nam Ai, Văn Thiên Tường,
Nam Xuân, Sương Chiều, Tú Anh, v.v. nhưng nổi tiếng nhất vẫn là bài Vọng
Cổ. Về sau chữ Vọng Cổ gần như đồng hóa và thay thế cho chữ Cổ nhạc Nam
phần. "Nghe Vọng Cổ," "ca Vọng Cổ," "Làm vài câu Vọng Cổ nghe chơi!" trở
thành ngôn ngữ thông dụng cho cách thưởng thức một bộ môn nghệ thuật đại
chúng của dân miền Nam. Tuy nói là "nghe chơi" nhưng phải nh́n khán giả
miền Nam khi họ nghe ca Vọng Cổ, dù ở các đám tiệc, buổi đờn tài tử hay
trong rạp hát, mới thấy sự trân trọng của họ đối với bài hát và người
tŕnh diễn. Không ai bảo ai, tất cả đều im lặng khi câu rao bắt đầu. Họ
chờ đợi nhưng cổ vơ người nghệ sĩ trong im lặng, háo hức. Người hát cũng
đáp lễ bằng để hết tâm hồn vào câu ca v́ một câu ca vô hồn sẽ hiện rơ
không thể dấu diếm, và đó là điều khinh thường người thưởng ngoạn. Câu xề
vừa xuống là tiếng vỗ tay vang rền, từ em bé được cha mẹ dẫn đi xem hát
lần đầu đến cụ bà hom hem ngồi bên đứa cháu, từ ông bà sang trọng ngồi ở
hàng ghế thượng hạng gần sân khấu cho đến người đàn bà nhà quê ngồi cuối
rạp ở hạng cá kèo. Tất cả đều vỗ tay. Tất cả đều b́nh đẳng. Không kẻ lớn
người nhỏ, không kẻ giàu người nghèo. Chỉ có người thưởng thức một bài hát
hay.
Sau hơn 80
năm bài Vọng Cổ vẫn là vị hoàng đế không ngai của âm nhạc miền Nam. Trong
một buổi tŕnh diễn cổ nhạc Nam phần, dù là nguyên trọn hay trích đoạn vỡ
hát cải lương hoặc đờn ca tài tử, bài Vọng Cổ luôn luôn có mặt và luôn
luôn là bài hát chánh. Bài Vọng Cổ là một bài hát đặt biệt của miền Nam,
không thể lầm lẫn. Nó là biểu tượng đặc biệt của dân miền Nam. Không to
lớn dữ dội như sông Hồng, không thơ mộng, văn vẽ như sông Hương nhưng như
gịng Cửu Long với nhánh sông Tiền, sông Hậu chảy thấm vào đất đai, bồi bổ
đồng ruộng, chảy thấm vào ḷng người lúc nào không biết. Bản Vọng Cổ thấm
vào tâm hồn hiền ḥa, chất phác của người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long
nói riêng và của cả miền Nam nói chung. Nhập vào từ lúc c̣n ngậm bầu vú
mẹ, nhập vào từ lúc chập chửng bước đi cho măi đến khi đặt chân vào cuộc
đời đầy tranh đua, phiền toái.
Có phải ông Sáu Lầu là người đă đặt ra bài Dạ cổ hoài
lang? Theo truyền thuyết, ông Sáu Lầu cưới vợ đă lâu, gia đ́nh đầm ấm
nhưng không có được một mụn con. Cha mẹ ông buộc ông phải cưới vợ khác để
ông bà có cháu nối dơi tông đường. Ông Sáu buồn rầu, không biết xử sao cho
vẹn cả đôi bên hiếu và t́nh. Sống xa người vợ thương yêu nhưng nào đâu
quên bỏ được. Tuy xa mặt nhưng ḷng không cách, t́nh yêu càng làm nỗi nhớ
thương tăng thêm dào dạt. Ḷng tâm sự của người chồng gởi cả vào bản nhạc
mới được đặt ra, đó chính là bài Dạ cổ hoài lang bất hủ. Tuy bị cấm cản,
ông vẫn lén lút lui tới với vợ. Sau đó bà có mang, vợ chồng lại xum họp.
Sở dĩ tôi chỉ gọi là bản nhạc mà không gọi là bài ca hay bài hát v́ hiện
nay có một số nghi vấn về lời của bài Dạ cổ hoài lang. Có những người cho
rằng lời bài hát do ông Trần Xuân Thơ đặt ra, hay do một nhóm tài tử Sài
G̣n đặt ra. Có người lại xác định là ông Sáu Lầu đă sáng tác cả nhạc lẫn
lời. Dù sao đi nữa mọi người đều đồng ư là ông Sáu Lầu là cha đẻ của bài
nhạc vô địch đó. Bài Dạ cổ hoài lang sau chuyển thành Vọng Cổ hoài lang
(Trông t́nh xưa nhớ đến chồng) và cuối cùng là Vọng Cổ như ta biết ngày
nay.
Theo cá nhân tôi, nếu truyền thuyết về hoàn cảnh sáng
tác của ông Sáu Lầu là đúng th́ có lẽ ông chỉ đặt ra bài nhạc, c̣n lời ca
là của một nguồn gốc khác chưa được xác định chắc chắn. Tại sao? Đọc lời
ca của bài Dạ cổ hoài lang ta thấy rơ ràng đó là lời than thở nhớ thương
của một người vợ có chồng đi chinh chiến nơi phương xa. Nàng mong chồng
b́nh an trong chiến trận, nhớ lời ước hẹn, t́nh nghĩa phu thê mà sớm quay
về gia trung. Đây không phải là lời thương yêu ai oán của một người chồng,
v́ hoàn cảnh, đang phải sống xa ĺa người vợ thủy chung. Dù có ngụy trang
thế nào đi nữa, ông Sáu Lầu cũng không thể đặt ra lời cho một người đàn bà
nhớ chồng để gởi gắm tâm sự nhớ vợ của ông. Rất phản tự nhiên. Văn chương
của lời ca cũng tương hợp với các loại truyện thơ như Thoại Khanh Châu
Tuấn, Lâm Sanh Xuân Nương của đất Nam Bộ thời ấy hoặc các truyện Tàu như
Tam quốc chí, Nhạc Phi, Thuyết Đường do ông Nguyễn Chánh Sắc dịch. Ngoài
ra, tất cả các bản nhạc xưa đều được sáng tác nguyên thủy cho nhạc khí,
không lời hát và có lẽ nhờ đó mà chúng đuợc phổ biến rộng rải và lưu
truyền cho đến ngày nay. Chúng không bị bó buộc t́nh cảm để chỉ được tŕnh
diễn hay thưởng thức trong một hoàn cảnh nhất định như các bài hát có lời.
Bài Vọng Cổ có một nét đặc biệt mà gần như không một bài hát nào khác được
thừa hưởng. Đó là tính đa dạng, biến thái của bài hát theo lời ca. Cũng
cùng điệu nhạc, điệu đàn nhưng bài Vọng Cổ thay đổi hẳn bản chất tùy theo
lời đặt ra. Buồn thương sầu thảm như Lan và Điệp, Lương Sơn Bá, Chúc Anh
Đài. Năo nề ai oán như Sầu vương ư nhạc, Hạng Vơ biệt Ngu Cơ. Khuyên dạy
êm đềm như Tu là cội phúc, Nỗi mừng ngày cưới. Kể truyện tích xưa như Đội
gạo đường xa, Lưu B́nh Dương Lễ. Vui đùa, dí dỏm như Tư Ếch đi Sài G̣n,
Tựa tuồng sân khấu. Không một soạn giả nào có thể dùng bài Lư con sáo để
nói những lời hư lộng mà chỉ có thể than thở như cô Lan trong T́nh Lan và
Điệp của soạn giả Viễn Châu (đừng lầm với bài Lan và Điệp cũng của ông
Viễn Châu):
"Hoa bay
theo gió cuốn rụng đầy sân rêu,
Nh́n hoa
tàn rụng rơi, Lan bâng khuâng tê tái tâm hồn
Bởi bao
cay đắng dập dồn,
T́nh đầu
vừa tan theo khói sương,
Lan khóc
than trong tháng năm sầu thương.
Mùi thiền
đành quen câu muối dưa,
Mong lăng quên khổ đau ngày xưa."
Bản Vọng Cổ ca đủ 6 câu phải mất khoảng 6 phút, gần gấp đôi một bản tân
nhạc, có thể kể đầy đủ một câu truyện, một sự tích. V́ vậy Vọng Cổ là một
phương tiện rất tốt để truyền bá kiến thức văn hóa cho đại chúng nhất là
với tầng lớp dân quê ít học. Đất rộng, người thưa. Vất vả, cô đơn là những
nỗi khó khăn mà lớp người tiền phong xuôi Nam khai phá đất đai, mở mang xứ
sở phải chịu đựng:
"Má ơi,
đừng gả con xa
Chim kêu,
vượn hú biết nhà má đâu"
Nhờ Vọng Cổ mà người b́nh dân miền Nam biết được các tích truyện đầy luân
lư như Lâm Sanh Xuân Nương, Phạm Công Cúc Hoa, Thạch Sanh Lư Thông, Tử Lộ
v.v. hay những điển tích truyện Tàu như Triệu Tử Long triệt giang, Đơn
Hùng Tín, Đắc Kỷ Trụ Vương, Lữ Bố hí Điêu Thuyền, Chung Vô Diệm. Không có
lối giáo dục nào hay hơn. Trước là truyện thơ, sau là Vọng Cổ đă tạo cho
người miền Nam một nếp sống và nhân sinh quan khác hơn dân các miền khác.
Tinh thần phóng khoáng của những bậc tiền bối đi trước đă được các tích
Cậu Hai Miêng, Đào Viên kết nghĩa, Đơn Hùng Tín, v.v. vung bồi, như phù sa
làm ph́ nhiêu thêm đất vườn vùng đồng bằng sông Cửu, và truyền dạy đến lớp
hậu sinh ngày nay. Nó tạo ra những phong cách "tứ hải giai huynh đệ", "anh
hùng tử, khí hùng bất tử" mà đến nay người miền Nam vẫn c̣n tự hào.
Rảo bước vào các làng quê miền Nam, người khách lạ luôn luôn nghe tiếng ca
Vọng Cổ văng vẳng vọng ra từ một ngôi nhà nào đó trong xóm. Có thể là
giọng ca của Minh Cảnh, Lệ Thủy, hay Hữu Phước, Ngọc Giàu. Có thể là bài
Vọng Cổ xưa như Người mẹ mùa ly loạn, Gánh nước đêm trăng, có thể là một
tân cổ giao duyên như Chàng là ai, có thể là giọng ca hài hước của Văn
Hường trong Vợ tôi tôi sợ. Nhưng âm vang của bài Vọng Cổ luôn luôn ôm ấp,
quấn quít tâm hồn người dân hiền lành, mộc mạc từ mấy mươi năm trước cho
đến bây giờ. Và sẽ c̣n măi về sau, thương hoài câu Vọng Cổ.", Dương Bé,
tháng 6, năm 2004.
Lời kết của bài viết này là khi nghệ sĩ Việt Hùng c̣n sanh tiền, ông ưu tư
về sự mai một của ngành cổ nhạc tại hải ngoại, tôi có dịp gặp ông, ông ca
với làn hơi dài chất chứa cả một quê hương mang theo. Ông đă từng tâm sự
ḷng: "Một giọng hát, một câu ḥ như "Chiều chiều trước bến Văn Lâu...",
một câu quan họ, hay một câu vọng cổ cất lên làm ta thấy cả "hồn dân tộc
trong ấy". Thật vậy, với lớp người sanh trưởng từ bên kia bờ Thái B́nh
Dương có những ấp ủ, những quyến luyến với bản sắc văn hóa của người Việt
mà chúng ta có đầy đủ lư do để tự hào, để hoài niệm, th́ theo ư tôi những
suy tư của Việt Hùng hay Dương Bé là nên ǵn giữ ngành cổ nhạc tại hải
ngoại, v́ nó là bộ môn văn hóa độc đáo và cao quí của chúng ta. Nếu đi gần
hơn với bài viết "Dạ Cổ Hoài Lang và ông Sáu Lầu" này, soạn giả Cao
văn
Lầu với những đóng góp của ông trong ngành cổ nhạc, mà trong đó có bài bi
thương "Dạ Cổ Hoài Lang", đă để lại cho đời những tiếng ḷng thổn thức
trong tâm khảm đầy văn hóa và đầy hương vị của quê hương Việt Nam, và rất
"Việt Nam". Tôi suy nghĩ như vậy.
Vương
Thư Sinh