
Buổi sáng Tân thức dậy sớm, đun ấm nước, pha
tách trà đầu tiên trong ngày. Tiếng nước reo
vang trong buổi sáng mùa đông, khiến anh cảm
thấy bâng khuâng. Bởi những khi tĩnh lặng
một mình, tiếng nước reo trên bếp lửa hồng,
tiếng gà gáy lạc lõng ban trưa, tiếng chó
sủa bâng quơ trong đêm vắng…đã gợi lại trong
lòng anh hình ảnh của một thuở ấu thơ u buồn!
Tân mở máy PC, xem tin tức từ thân hữu bốn
phương gởi đến. Trên một trang Web của một
bạn đồng môn trẻ tuổi, có bốn câu thơ:
Chiều tháng chạp trở về bên sông Vệ
Dòng nước này đang đổ xuống làng tôi
Sông thì chảy mà không đò xuôi ngược
Tôi ngẩn ngơ như mất Mẹ bên đời….
Anh đọc bốn câu thơ mà nhớ Mẹ vô cùng. Nhưng
may mắn và phúc đức thay, Mẹ anh vẫn còn
sống và còn khoẻ mạnh. Hàng tuần anh vẫn tâm
sự với Mẹ qua đường dây viễn liên, vượt qua
nghìn trùng xa cách của một Thái bình dương
mênh mông. Mẹ anh còn nhớ rõ một buổi chiều
tháng 12 năm 1954, dưới mưa phùn tháng chạp
lạnh buốt, bà dắt díu các con hối hả bước
xuống chiếc đò ngang nhỏ bé qua bên kia sông
Vệ. Đàng sau họ là đám công an giả dạng
thường dân đang đuổi theo. Và phía trước,
bên kia sông lá cờ vàng đang tung bay phất
phới trên chiếc cột cao, uốn lượn trong mưa
gió chiều đông. Nơi đó là bến bờ Tự do. Đã
sáu mươi năm trôi qua, những cảm giác hãi
hùng, chen lẫn nỗi vui mừng năm xưa vẫn chưa
phai mờ trong tâm trí một bà cụ sắp đến tuổi
bách niên. Thế thì đứa con lớn nhất của bà
làm sao có thể quên được cái quá khứ đau
thương kia?
*
* *
Cả quãng đời thơ ấu của Tân, cuộc sống của
gia đình anh luôn thay đổi, rày đây mai đó!
Người cha theo kháng chiến từ năm 1945. Nửa
năm sau, khi cuộc chiến tranh Việt Pháp nổ
ra, ông đưa gia đình từ Sông Cầu, tỉnh Phú
Yên, về quê cũ tỉnh Bình Định. Sau đó, theo
cơ quan VM tại tỉnh nhà, đưa gia đình di
chuyển từ Bình Dương, Bồng Sơn đến Trung
Lương,Thế Thạnh, An Thường. Và cuối cùng về
lại làng cũ An Lương, Hưng Lạc …Tỉnh Bình
Định thuở ấy thuộc Liên Khu Năm, nơi “an
toàn khu” của VM. Cha anh lúc ấy, có lẽ e
ngại “vợ yếu, con đông”, ngại con đường
“dinh tê về thành” quá xa xôi nguy hiểm….
Cho nên ông không thể ca bài “Bên Cầu Biên
Giới” của Phạm Duy khi trở về “vùng bị chiếm”
nơi thành phố!
Mãi đến khi VM phát động phong trào “tinh
giản biên chế”, cho “về vườn” những người
tham gia kháng chiến mà không vào đảng, thì
cha anh mới đưa gia đình về quê nhà ở Hưng
Lạc, dệt vải để sinh sống. Riêng Tân, đang
đi học xa, phải bỏ học để về nhà tập cày bừa
mảnh ruộng do đại gia đình bên nội phân chia…
Một buổi trưa cuối tháng bảy năm 1954, anh
đang cày đám ruộng khô cằn dưới ánh nắng hè
gay gắt, người chú chạy đến vui mừng kêu lên:
- Thôi đừng cày nữa cháu à! Đình chiến rồi!
Hoà bình tới nơi rồi! Thôi về nhà để xem cha
cháu dự tính thế nào đây?....
Tân ngẩn ngơ đứng nghe chú mình say sưa nói
về “đình chiến, hoà bình”. Đôi bò không
người điều khiển vẫn tự động đi tới, kéo lê
chiếc cày, suýt làm gãy cái “nông cụ cổ lỗ”
nhưng quý giá thời bấy giờ! Ngày hôm sau, có
người quen của chú Út từ Quy Nhơn, tìm đến
nhà gia đình Tân, nói nhỏ ba anh:
- Thưa anh, anh Út đã bỏ đơn vị bộ đội,
không xuống cảng Quy Nhơn để ra Bắc. Hiện
đang trốn ở nhà em! Anh ấy nhắn anh nên tìm
cách trốn ra vùng Quốc gia. Hãy làm nhanh,
nếu trễ tụi công an sẽ đến bắt anh xuống tàu
đi tập kết, anh à!
Người chú vội vã giúp ba của Tân làm giả
giấy tờ đi đường. Họ dùng củ khoai lang,
khắc chữ làm khuôn dấu; dùng lọ nồi trộn dầu
dừa để đóng lên giấp phép. Ba anh cải trang
làm người đi buôn đường dài. Ông lặng lẽ đưa
mắt giã từ vợ con, rồi đạp xe lên đường
“dinh tê” về vùng Quốc Gia đang tiếp thu,
phía bắc tỉnh Quảng Ngãi…
Một tuần sau, vào buổi trưa trung tuần tháng
chạp, có người đến gặp mẹ Tân. Đó là người
bên họ ngoại của bà. Ông ta chào hỏi thân
mật; đoạn hỏi bà chị họ đang e ngại nhìn
người em họ công an:
- Thưa chị, chúng tôi được tin anh nhà đã
trốn ra tới Huế rồi! Chắc chị biết rồi chứ?
Ngưng một lát như để thăm dò phản ứng của bà
chị họ, ông ta cao giọng tiếp:
- Anh chị đã tham gia Cách Mạng từ những
ngày đầu cuộc Khởi nghĩa 1945. Nay anh trốn
theo giặc Pháp, không ở lại để tập kết ra
Bắc, tiếp tục phục vụ cách mạng với anh em.
Như vậy là phản bội rồi đó! Chị đồng ý không?
Thấy mẹ anh im lặng, ông ta gằn giọng đe dọa:
- Chị nhắn anh ấy trở về ngay…Còn nếu chị
cũng bỏ trốn theo ảnh, chúng tôi cho người
bắt lại. Lúc đó đừng trách tôi quên tình chị
em đấy nhé!
Nói xong, ông ta hằn học bỏ đi, quên cả chào
bà chị mà lúc mới bước vào nhà, ông ta giả
vờ lễ phép theo cung cách mà người CS chê là
“tiểu tư sản”! Ông ta cũng không muốn chào
bà nội của Tân, đang ngồi têm trầu trên tấm
phảng gõ gần đó…
Sáng hôm sau mẹ Tân xin phép bà mẹ chồng,
lên đường trốn thoát đám công an đang đe doạ
cuộc sống của bà và gia đình bà. Bà thay
quần áo mới cho các con. Bà cũng nhờ mẹ
chồng bắn tin cho hàng xóm biết, người con
dâu đã dẫn các cháu về quê ngoại ăn giỗ! Bà
lặng lẽ cúi đầu chào từ biệt mẹ chồng, bước
chân ra cổng mà nước mắt rưng rưng…!
Về đến quê ngoại ở An Lương, mẹ của Tân
không còn ung dung như lúc ra đi từ Hưng Lạc.
Bà lo chuẩn bị chu đáo chuyến “vượt thoát”
để tránh mạng lưới công an dầy đặc trên
đường ra Quảng Ngãi. Bà nhờ dì Ba đến chính
quyền VM sở tại, xin giấy phép đi đường, với
lý do: đưa con ra Quảng Ngãi thăm bà con bên
nội... Cầm tờ giấy phép có chữ ký của chủ
tịch và đóng dấu Ủy ban xã, người dì chuẩn
bị hành trang và “nhân vật” trong vở kịch
“dinh tê” sắp tới. Họ phải đi bộ, đi xe gòn,
đi xe ôtô ray, trên suốt quãng đường rất dài
từ An Lương, Phù Mỹ, Bồng Sơn, Tam Quan đến
Quảng Ngãi, phía nam sông Vệ. Dì căn dặn các
cháu, khi đến chỗ đông người, phải gọi bà là
Má! Ngược lại, phải gọi mẹ mình là bà Vú (người
nuôi nấng, cho bú mớm thay mẹ ruột)!
* * *
Dì Ba khá gầy ốm, mảnh khảnh, hầu như suốt
đời kém may mắn và khổ cực. Tuy nhiên bà có
đức tính đáng quý là chịu đựng gian khổ và
thương yêu người khác, nhất là chị mình và
các con của chị…Bà goá chồng từ lúc sinh
người con thứ năm, cũng là cô gái út! Ông
chồng của bà đã theo đám con buôn hàng
chuyến, ra mãi tận Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
(do chính quyền Quốc gia kiểm soát), để mua
“hàng ngoại” về bán lại cho dân chúng địa
phương. Hồi ấy, vùng Liên khu Năm sống trong
cô lập và thiếu thốn. Từ những hàng vải sang
trọng, các loại thuốc tây, những tập vở giấy
trắng, đến chiếc đồng hồ đeo tay, cây viết máy,
viên đá lửa…đều được mua từ vùng “bị chiếm”.
Để qua mặt sự kiểm soát của công an VM, các
con buôn nữ giới dấu diếm “hàng ngoại” thật
tài tình; từ mái tóc trên đầu, đến dưới làn
áo trước bụng…Cho nên đến nay người dân địa
phương vẫn còn nhớ câu ca dao:
Đầu phồng đá lửa,
Ruột chửa ka ki,
Chửa ở Tam kỳ,
Vô Bồng Sơn đẻ…
Ông chồng của dì vừa ra đến Tam Kỳ, chưa kịp
mua bán gì, đã bị bệnh đột ngột rồi qua đời
nơi đất khách! Sau đó, người vợ đáng thương
của ông tìm cách ra tận nơi, thuê người hốt
cốt đem về quê nhà chôn cất. Từ đó dì Ba nẩy
sinh ra ý nghĩ: theo các bạn nữ đi buôn bán
hàng ngoại ở vùng do Pháp kiểm soát, phía
bắc Liên khu Năm.
Dì Ba có người láng giềng tốt bụng, cũng goá
chồng như bà và có người con gái đang học
cấp I. Cô gái tên Hoa, nước da bánh mật xinh
xắn; từ học hành đến việc nhà cô đều giỏi
dang. Vì nhà nghèo lại mồ côi cha, nên học
xong cấp I, cô bé ở nhà phụ mẹ buôn bán ở
chợ để nuôi các em còn nhỏ dại. Dì rất
thương bé Hoa nên nhận làm con nuôi. Thỉnh
thoảng khi xin giấy phép “đi buôn đường dài”
dì Ba khai bé Hoa là con, đi theo phụ giúp
bà mang xách hàng hóa…
Sau mỗi chuyến đi buôn, cô gái mua một món
quà nhỏ về tặng bạn bè thân thiết. Tân cũng
là bạn thân với bé Hoa, bởi trước kia hai
người từng học một lớp ở trường làng. Tình
thân ái tiếp tục kéo dài, khiến cho cô bạn
học cũ vẫn nhớ đến anh, mua cây viết máy từ
“vùng bị chiếm” về tặng. Đối với Tân, đó là
cây viết máy đầu tiên trong đời, hiệu Kaolo.
Cây viết màu nâu có những sọc ngang vàng đục,
hơi nặng và to.. Ngòi viết hình tháp, có
những vòng xoắn ốc. Anh cẩn thận vặn nhẹ
phần cuối của cây viết, ngòi thuỷ tinh từ
từ ló ra. Ngòi viết loại này khi dùng lâu
không bị mòn, bị “rè”, mà chỉ sợ vỡ nếu vô
ý đánh rơi. Khi viết xong, anh có thể vặn
ngược lại, ngòi rút dần vào bên trong …
Những năm sau này, khi đi học ở Huế, Sài gòn…Tân
không bao giờ thấy lại cây viết độc đáo -món
quà quý báu của người bạn gái năm xưa nữa!
Bởi sau 1954, những loại viết có chứa mực
bên trong như Pilot, Waterman, Parker…đã
thay thế cây Kaolo xưa cũ, cây viết đã có
nhiều dấu ấn kỷ niệm đối với thế hệ học sinh
trước năm 1954 như anh.
* * *
Đêm hôm ấy, bầu trời mờ ảo với ánh trăng
thượng tuần. Đoàn người lặng lẽ khởi hành,
phân tán từng nhóm nhỏ để tránh sự dòm ngó
của công an VM. Cậu Bảy của Tân đi tiên
phong, vừa dẫn đường, vừa bảo vệ đoàn người
mà phần lớn là đàn bà và trẻ nhỏ. Phía sau
là mẹ Tân - người “vú nuôi trên giấy tờ”- bế
cô con gái út vừa mới hai tuổi. Đi bên cạnh
là dì Ba. Những khi thấy người chị mệt mỏi,
dì Ba liền bế hộ cháu nhỏ. Đi bên cạnh mẹ,
cậu trai út của bà độ mười tuổi, nhanh nhẹn
chững chạc như những người lớn trong đoàn.
Tân đi trong nhóm cuối cùng, cõng trên vai
cô em gái lớn. Cô bé đã lên sáu, hàng ngày
vẫn chạy nhảy nghịch ngợm như một bé trai.
Nhưng hôm ấy bé bị té trặc chân, không thể
đi bộ được. Đi bên cạnh Tân là Hoa, con nuôi
dì Ba. Thỉnh thoảng, nàng thay phiên cõng hộ
cô em gái bị đau chân của anh…
Đoàn người lặng lẽ rảo bước dưới ánh trăng
mờ. Đường sá lúc ấy vắng lặng đến rợn người!….
Khi đi ngang qua Gò Rộng, Mẹ anh vừa đi vừa
lẩm nhẩm cầu nguyện. Gò Rộng là nơi VM đã xử
bắn người bạn thân ba của Tân, sau khi kết
tội ông đã tổ chức cuộc chống đối VM gần năm
năm trước. Đến nhà ga Phù Mỹ, trời đã khuya.
Họ đã đi bộ khoảng hai tiếng đồng hồ, không
ngơi nghỉ! Mọi người mệt nhoài, dựa vào vách
nhà ga, hoặc lăn ra nằm ngủ trên đám rơm khô
rải rác trên sàn nhà ga…
Mờ sáng hôm sau, dì Ba thức dậy mua vé xe
gòn đi Bồng Sơn cho tất cả mọi người. Riêng
cậu Bảy phải quay trở về An Lương vì không
xin giấy phép đi đường xa. Cậu lưu luyến
chia tay bà chị cả và các cháu. Có lẽ cậu
nghĩ, rồi đây “ muôn dặm đường xa, giang sơn
cách trở”, không biết bao giờ mới gặp lại
những người thân yêu này?
Những năm cuộc chiến Việt Pháp ác liệt diễn
ra, máy bay Pháp thường oanh tạc chợ búa,
nhà cao tầng, cầu cống, các phương tiện giao
thông…Tại nhà ga Phù Mỹ, xe lửa thuở ấy chỉ
là những toa không mui, không vách, chỉ còn
sàn xe với bốn bánh sắt, được gọi là xe gòn
(hoặc goòng, từ tiếng Pháp: wagon). Đó là
phương tiện giao thông sơ sài và kém an toàn,
nhằm giúp những hành khách di chuyển đường
xa…Hành khách lên xe, ngồi xuống sàn, lưng
sát vào nhau, ôm chặt lấy mũ nón và hành lý
của mình. Ở bốn góc sàn xe, có dựng những
cây trụ nối nhau bằng dây thừng quanh bốn
phía. Mục đích giữ cho khách trên xe được
“an toàn”! Ba công nhân khỏe mạnh đẩy xe
trên đường ray đã được sửa chữa sau khi bị
bom tàn phá. Tuy nhiên có những đoạn đường
bắt qua chiếc cầu bị sập, nên xe phải chạy
trên đường sắt cheo veo như đi trên cầu treo!
Mỗi khi xe lên dốc, phải nhờ những nam hành
khách khỏe mạnh xuống xe đẩy phụ. Đến lúc
xuống dốc xe chạy nhanh, những người đẩy xe
(cả công nhân lẫn hành khách đẩy phụ) vội
lên xe ngồi, mặc cho chiếc xe gòn không
thắng chạy tự do, với tốc độ nhanh dần theo
độ dốc!
Đến thị trấn Bồng Sơn, phía bắc tỉnh Bình
Định, hành khách xuống xe, đi đò qua sông
Lại Giang, nơi cầu Bồng Sơn bị bom phá sập.
Sau đó mọi người đi bộ đến ga Bồng Sơn. Đang
khi đi trên đường lộ, Tân bỗng nhìn thấy từ
xa, một người đạp xe chạy ngược chiều với
anh. Một tay người ấy nắm ghi đông xe, phía
bên kia chỉ có tay áo lủng lẳng, phất phơ
theo chiều gió…Tân nhận ra anh Quý, người
huynh trưởng Hướng Đạo của mình năm năm về
trước. Có lần cha kể lại: anh Quý đi bộ đội
và bị thương, phải về nhà. Sau đó xin vào
làm việc trong ngành công an. Mẹ Tân cũng
vừa nhận ra người thương binh mà chồng đã có
lần nhắc tới. Bà vội kéo con vào ẩn mình
trong đám mía bên vệ đường. Bà không muốn
những rắc rối có thể xảy đến cho gia đình
trong lúc này.
Tối hôm ấy, khi mẹ của Tân cùng dì Ba vào
nhà ga Bồng Sơn mua vé xe lửa, thì suýt nữa
gặp nguy hiểm…Người nhân viên bán vé, ông
Phi, một bạn cũ của ba Tân, đã nhận ra bà.
Ông ta nhìn bà trong giây lát, rồi hỏi,
giọng dè dặt:
- Chị có phải là vợ anh Khang không?
Thấy mẹ Tân im lặng, ông nói tiếp:
- Thế, chị mua vé đi đâu đây? Đi Quảng Ngãi
phải không?
Mẹ Tân e dè đáp :
- Dạ phải…
Thấy thái độ do dự, lo lắng của mẹ Tân, ông
Sơn trao vé cho bà, rồi bước ra khỏi quầy
bán vé, giao công việc cho nhân viên khác…Ông
kéo người vợ của bạn cũ ra khỏi nhà ga, rồi
nhìn quanh, hạ giọng nói nhỏ:
- Tôi nghe nói anh Khang dinh tê về thành,
nhưng không rõ đi đâu. Chỗ thân tình tôi nói
thật với chị: nhắn anh ấy cứ cố mà đi. Nếu
quay trở lại họ bắt đi tập kết ra Bắc, sẽ
không có ngày về với gia đình đó, thưa chị!…
Mẹ Tân cũng thấp giọng nói nhỏ với người bạn
cũ của chồng:
- Thưa anh! Tôi và các cháu nhờ cô em dẫn ra
Quảng Ngãi, để tìm đường đi Huế. Nhà tôi đã
đi trước ra ngoài đó rồi! Họ đang cho người
theo dõi bắt tôi lại. Nếu anh không thương
tình, anh cứ báo cáo cho Công an. Còn nếu
anh nghĩ đến tình bè bạn với anh Khang, xin
anh kín miệng cho…
Ông Sơn im lặng giây lát, rồi nhẹ nhàng nói:
- Thật tội nghiệp cho chị! Đường xa đi nguy
hiểm lắm. Khi nãy tôi thấy chị đi với cả gia
đình, tôi đã đoán ra rồi…Thôi, chúc chị đi
gặp nhiều may mắn.
Mẹ Tân thấy nhẹ cả người. Bà cảm ơn người
bạn tốt bụng ấy, rồi vội trở lại với các con
và dì Ba đang chờ đợi trong nhà ga Bồng Sơn.
* * *
Sáng sớm hôm sau, gia đình Tân cùng dì Ba
lên xe lửa đi Quảng Ngãi. Đến phía nam sông
Vệ, tàu dừng bánh. Vùng đất bên kia sông,
trước ngày ký Hiệp định Genève, cũng do VM
kiểm soát. Nhưng hôm nay, quân đội Quốc Gia
đã đến đây tiếp thu, sau khi bộ đội VM rút
dần về Quy Nhơn để xuống tàu thuỷ ra Bắc.
Hành khách xuống xe lửa, đi bộ thêm một
quãng đường dài mới đến bến đò sông Vệ. Trời
lúc ấy sắp về chiều. Mưa phùn mùa đông lất
phất bay... Xa xa, con sông Vệ chia đôi tỉnh
Quảng Ngãi, trắng xoá một màu. Mẹ Tân ôm bé
gái út vào lòng; Tân cõng em gái lớn; Hoa -
con gái nuôi của dì Ba - dắt em trai của Tân;
mọi người đi sát bên nhau cho đỡ lạnh. Dì Ba
đưa gia đình vào trú tạm nhà người bạn thân
nằm gần đường lộ, chờ dì đi đổi tiền Tín
phiếu của VM, lấy tiền Quốc gia…Người chủ
nhà niềm nỡ nhóm bếp, pha trà nóng mời mọi
người uống cho đỡ lạnh.
Tân ngồi xa bếp, nhìn ánh lửa bập bùng mỗi
khi cơn gió bấc lùa qua khe cửa. Anh cảm
thấy lạnh buốt. Tuy nhiên, tiếng nước trong
ấm reo vang khiến Tân thấy vui vui. Nỗi lo
lắng âm ỉ trong lòng anh suốt những ngày
trốn chạy, giờ đây đã tạm lắng xuống. Anh
quay sang hỏi Hoa, cô bạn học cũ đã từng
tặng cây viết máy Kaolo trước đây:
- Những khi theo dì Ba đi buôn đường xa, Hoa
có qua vùng này không?
Cô gái vui hẳn lên:
- Có chứ! Hoa với mẹ Ba đã qua sông Vệ, ra
tận Quảng Nam, mua “hàng ngoại” về quê mình
bán lại đó anh…!
Nàng nhìn Tân, nói tiếp, giọng ngậm ngùi:
- Chốc nữa đây, gia đình anh sẽ qua sông Vệ,
rồi còn đi xa nữa…! Hoa đi buôn bán còn về
với gia đình. Còn anh, biết bao giờ mới trở
lại thăm quê An Lương?
Tân xúc động bởi những lời chân tình của
người con gái đã chia sẻ cực nhọc, hiểm nguy
trong suốt những ngày trốn chạy vừa qua với
gia đình anh. Chiều nay là buổi cuối cùng,
anh còn đi bên cạnh nàng. Anh qua sông, dì
Ba ở lại, cùng với cô gái nuôi trở về với
gia đình… Còn Tân, biết bao giờ anh trở lại
để thăm những người thân yêu này ở chốn quê
cũ?
Khi dì Ba trở về, trao tiền mới đổi cho mẹ
Tân. Dì cám ơn bà chủ nhà, cùng mọi người
hối hả đi xuống bến sông. Trên bến lúc ấy đã
vắng khách. Cả gia đình Tân bước xuống đò
ngang, ngoại trừ dì Ba và cô Hoa còn ở lại,
đứng trên bến trông theo… Chiếc đò được hai
người lái chống chèo, lướt nhanh trên sóng
nước, hướng về bờ bắc sông Vệ.
Khi con đò ra giữa sông, Tân nhìn sang bờ
trước mặt, phần đất Tự Do mà gia đình anh
sắp bước lên. Nơi đó sẽ khởi đầu một cuộc
sống mới lạ, ấm no, hạnh phúc…mà trong suốt
chín năm qua gia đình anh chưa bao giờ được
hưởng. Lần đầu tiên trong đời, anh nhìn thấy
lá cờ vàng phất phới tung bay trong gió đông.
Trên nền vàng tươi mát, nổi bật ba đường kẻ
đỏ song song, dịu dàng như những cánh chim
đang uyển chuyển bay…Từng đoàn xe nhà binh
đang đổ quân, chạy tới chạy lui như mắc cửi;
tiếng ì ầm vang lên không dứt.
Với gia đình Tân, kể từ đây, những ám ảnh
của chín năm kháng chiến, của chết chóc, của
đói khổ…sẽ không còn nữa! Tân nhìn mẹ khi
thấy bà đang thở phào nhẹ nhõm. Nét mặt bà
tươi vui, trẻ trung trở lại sau những ngày
trốn chạy đầy căng thẳng, lo âu…Các em của
Tân cũng chỉ trỏ reo vui khi nhìn quang cảnh
tấp nập lạ lẫm trên bờ bên ấy.
Tân quay nhìn sang bờ phía nam sông Vệ. Trên
bến, dì Ba và cô con gái nuôi đang đứng đó
trông theo… Nhìn hai người thân yêu cô đơn
lạc lõng trên bến sông vào buổi chiều đông
xám xịt, vắng ngắt, Tân thấy bâng khuâng
trong lòng…Rồi đây, dì và cô bé Hoa sẽ quay
trở lại gia đình, sống tiếp những ngày tháng
ê chề buồn tênh. Họ chờ đến khi quân VM rút
xuống tàu ra Bắc, chính quyền Quốc gia đến
tiếp thu. Anh nhớ đến câu nói của cô bạn học
cũ: biết bao giờ anh trở lại để thăm những
người thân yêu này ở chốn quê An Lương?
Nhưng cuối cùng, năm mươi sáu năm sau, từ
đất Mỹ xa xôi, Tân đã trở về thăm quê cũ vào
một ngày mùa đông năm 2010. An Lương bấy giờ
đã hoàn toàn thay đổi. Ngôi nhà bên ngoại
Tân, nơi mà một buổi chiều tối năm 1954 gia
đình anh trốn chạy VM, đã đổi chủ. Những
người hàng xóm, lợi dụng chức quyền tại địa
phương, đã chiếm giữ làm của riêng. Cây cối
trong vườn bị họ triệt hạ để xây cất thêm
nhà cho thuê mướn.
Ngày nào, Dì Ba cùng với cô gái nuôi tên Hoa
đã hướng dẫn, phụ giúp gia đình trong suốt
quãng đường từ An Lương đến bến đò sông Vệ
năm xưa, nay không còn nữa. Người dì thân
yêu đã mất năm 1982, trong một tai nạn xảy
ra tại nhà ở Sài gòn. Trước đó một tuần lễ,
Tân đã gặp dì lần cuối, khi từ trại tù “cải
tạo” miền Bắc trở về. Còn Hoa, cô bạn học đã
tặng anh cây viết máy Kaolo năm xưa, đã bị
chết trên đường từ Quy Nhơn về Phù Mỹ do VC
giật mìn xe đò khoảng năm 1965…
* * *
Tân cầm tách trà đến bên cửa sổ nhìn ra
ngoài. Trời Cali hôm nay đã sang thu, lành
lạnh, với sương mù giăng kín không gian. Tân
bỗng liên tưởng đến cảnh mưa phùn gió bấc,
mờ mịt trên sông Vệ năm xưa. Anh như thấy
lại hai chiếc bóng nhỏ bé, gầy ốm, cô đơn
của dì Ba và cô bạn học thuở thiếu thời,
đứng trên bờ nhìn theo gia đình anh đang
lênh đênh trên chuyến đò ngang sông Vệ. Kể
từ đó, anh đã xa dần quê cũ An Lương, và
cuối cùng, mãi mãi xa đất nước quê hương,
mãi mãi xa dì Ba và cô bạn học bé nhỏ năm
nào. Hôm nay, trên quê hương Tự Do của một
kẻ tị nạn xa nhà, anh nhẩm đọc lại câu thơ
đã dịch từ tiếng Pháp trong bài Le Lac của
Lamartine:
Nếu cuộc đời là nhớ nhung luyến tiếc
Xin thời gian hãy ngừng cánh tung bay…
Đã sáu mươi năm trôi qua sau ngày Tân và gia
đình trốn chạy VM, bước xuống đò qua sông Vệ.
Thời gian vẫn vô tình trôi đi như nước chảy
dưới cầu. Cho dù trong lòng Tân nặng trĩu
những nhớ nhung luyến tiếc, cũng không làm
sao níu kéo được dòng thời gian để sống lại
giây phút cảm động đầy mến thương của buổi
chiều trên sông Vệ vào mùa đông năm xưa…
Hồi
ức Tam Bách
|