Ra trường
chưa được ba năm phải đối diện với biến cố lịch sử 30 tháng 4 năm 1975,
khóa Đốc sự 17 Học Viện Quốc Gia Hành Chánh tan tác như đàn chim vỡ tổ,
đây là khóa đông đảo nhất, có hai lớp A và B. Tháng tư và tháng sáu vừa
qua, chúng ta đau buồn tiễn đưa hai người bạn đồng khóa thân yêu về nơi
miên viễn với các căn bệnh thường xảy ra cho người lớn tuổi, lại có tin
không vui về sức khỏe của vài người bạn khác. Biết cuộc đời là mong
manh, vô thường nhưng sao khi nghe một tin buồn thế nầy, ḷng chúng ta lại
chùng xuống, thương tiếc mênh mang.
May mắn thay, điểm xuyết vào màng tối u buồn nầy, chúng ta có
vài niềm vui, niềm hy vọng của thế hệ nối tiếp làm lan tỏa những nụ cười
tươi, trong đó mới nhất là tin cháu gái con của
một người bạn vừa tốt nghiệp Thủ khoa High School và được hầu hết các
trường Đại hoc nỗi tiếng của tiểu bang California nhận vào học, như các
trường Stanford, UC Berkerley, UC L.A, UC San Diego…, quan trọng hơn nữa
cháu được quỹ học bỗng Bill Gates trao tặng học bỗng toàn phần cho học
tŕnh Đại học từ 4 năm tới Tiến sĩ.
Để nhẹ
ḷng bớt về những mất mát lớn lao của bạn bè ḿnh, tôi xin kể lan man về
chuyện đời của người bạn ấy,
mà chắc chúng ta ai cũng gần gủi, thương mến, với những năm tháng nhọc
nhằn, gian khổ, với mối t́nh đẹp như thơ, với hai cô con gái bé bỏng, xinh
xắn, rất ngoan và học hành xuất sắc.
Trong lớp,
hắn là một tay lăng tử, dù hắn gần như chưa có mối
t́nh nào lận lưng ở tuổi học tṛ, ngồi ở lớp B nhưng h́nh như các bạn lớp
A cũng mơ hồ nghĩ rằng tay nầy học lớp ḿnh,
hắn làm bạn với tất cả mọi
người, mới thấy hắn ngồi tán dóc ở ghế đá Kư túc xá với Quảng Tài, thoát
một cái lại thấy hắn đang thụt bida với An gà gáy ở
Câu lạc bộ, vài giờ sau
thấy chàng thơ thẫn với vài người bạn khác ở phía trước thư viện Nguyễn
Văn Bông. Chuyện trên trời dưới đất, chuyện trong nhà ngoài phố, chuyện
trung, chuyện nam, chuyện bắc ǵ hắn cũng biết, chuyện rượu chè, bồ bịch
của các tên khác hỏi đến hắn th́ hắn kể rành mạch y như được chứng kiến từ
đầu tới cuối, bạn bè rủ đi đâu hắn theo đó, tham dự vào mọi việc. Ưu điểm
lớn của hắn là trí nhớ tuyệt vời và tài kể chuyện, đến bây giờ sau gần bốn
mươi năm từ ngày nhập học nhưng hắn có thể kể vanh vách họ tên, ngồi ở chỗ
nào, đặc điểm ǵ của từng người bạn trong lớp, một tấm h́nh cũ, úa vàng
trong đó có năm bảy thằng sinh viên ốm nhách, mặt búng ra sữa chụp ngày
nào, nếu có ai quên cứ đến hỏi hắn, hắn sẽ nói trúng phóc mỗi đứa với nụ
cười kiêu hănh tới mép tai của hắn. C̣n về tài kể chuyện, th́ từ những
chuyện lăng nhách, không đâu vào đâu, hay những chuyện quan trọng, nhức
đầu, khi tới miệng hắn sẽ trở thành những mẫu chuyện lư thú, có đầu có
đuôi, có nhập có kết, khúc chiết cặn kẻ từng chi tiết như chính chuyện hắn
không bằng với ngôn ngữ miền nam hiền ḥa của hắn, đến nỗi mỗi khi hắn
bước vào office của một thằng bạn thân, mọi người đều ngưng làm việc,
miệng tủm tĩm cười để ḥng nghe một câu chuyện nào đó của hắn, một thằng
bạn thân khác sống quá lâu bên nhà quen với từ ngữ của xă hội mới gọi hắn
là “trí tuệ Nam bộ” không biết có vừa ư hay không mà hắn cứ ngoặt miệng ra
cười không ngậm lại được.
Thông minh không kém ai, nhưng cuộc sống hắn lăng đăng, chơi
là chính học là phụ, chuyện thiên hạ là chính, lo cho hắn là phụ nên khi
ra trường hắn chỉ đủ điểm để được chọn về ngủ (5) Quảng hay Cao nguyên.
Nghe lời một thằng bạn đẹp trai, cao ráo, hắn theo bạn chọn về một tỉnh có
phố núi cao cao, có một làng đạo lâu đời, có những cô gái dân tộc cà răng
căng tai, nhưng bù lại tỉnh lỵ nầy lại nỗi tiếng v́ có nhiều thiếu nữ xinh
đẹp, có thể v́ do khí hậu thường se se lạnh hay v́ niềm tin tôn giáo nên
các cô thường có khuôn mặt tinh khiết, thánh thiện hao hao Đức Mẹ Maria.
Chưa tới hai mươi bốn tuổi hắn đă là Phó quận trưởng, sau đó
là Trưởng ty, đến hai mươi lăm tuổi hắn là Phó tỉnh trưởng, hắn thăng quan
tiến chức vù vù, là Phó tỉnh đầu tiên và cũng là sau cùng của Đốc sự 17,
nhờ bản lĩnh hành chánh của hắn nhưng điều quan trọng hơn là hắn gặp may
và có lẽ điều may mắn nhất trong đời hắn là đă gặp được người vợ tương lai
với mối t́nh tuyệt đẹp ở tỉnh lỵ đ́u hiu nầy. Không biết chấm hắn từ lúc
nào nhưng ông Trưởng ty Ngân Khố luôn luôn hổ trợ hắn, ông cụ vốn là một
tu xuất, dáng dấp cao ráo và vô cùng hào hoa phong nhă, có một quá khứ khá
lẫy lừng về t́nh ái. Sự hổ trợ nầy cũng không có ǵ to tát lắm: khi thấy
xe của ông Phó quận đậu ở Ty Ngân khố để lănh tiền phát cho nạn nhân
chiến cuộc hay cô nhi quả phụ, ông cụ chỉ thị cho người cashier chọn cho
hắn những xấp bạc mới tinh nguyên block, chỉ phải xem số thứ tự chứ không
cần phải đếm, nên chỉ tốn chừng mươi
mười lăm phút để nhận năm ba chục triệu, xong vào
uống với ông cụ ly bia rồi tà tà về quận, hắn có thể phát thật nhanh với
những tờ giấy bạc mới cứng cho người thụ hưởng mà không sai sót bao giờ.
Từ công vụ chuyển sang “tư vụ” chắc cũng không khó khăn ǵ, v́
hai đối tác cùng cấp, cũng như từ văn pḥng Ty ḷ ḍ xuống tư thất ông
Trưởng ty cũng không xa xôi ǵ mấy v́ hầu hết đều nằm trong khuôn viên của
Ty, tại đây hắn đă gặp được ái nữ của ông Trưởng ty, nàng năm đó chỉ mới
mười bảy tuổi và được gia đ́nh gởi đi “du học” tại Sàigon, hè và tết mới
về lại nhà. Mùa Noel và Tết năm 1974 có lẽ là thời gian huy hoàng nhất của
hắn v́ lúc đó hắn đă là Phó tỉnh trưởng trẻ nhất nước và đă được phép đưa
nàng đi lễ nhà thờ, ra mắt các Cha- dù hắn là người ngoại đạo, dung dăng
dung dẻ, và đưa nàng đi đâu nữa th́ chỉ có hắn và nàng biết…
Đầu tháng 3 năm 1975 hắn về Sàigon công tác và nhân thể ghé về
quê thăm nhà đặng thưa với hai cụ thân sinh xin cưới nàng. Đây là chuyến
đi dài nhất trong đời hắn, kéo dài tới mười một năm hắn mới có dịp trở về
đường xưa lối cũ, v́ giữa tháng 3 Cộng sản đă chiếm được Ban Mê Thuộc rồi
Kontum, Pleiku. Đến cuối tháng 3 th́ một dăy non sông gấm vóc Việt Nam từ
Quảng Trị đến Nha Trang và Cao nguyên đă lọt vào tay Cộng sản, đến 30
tháng tư th́ chúng ta trắng tay, hắn đâu có c̣n cơ hội nào về lại nhiệm sở
và chia tay lần cuối với người yêu…
Cuốn theo vận
nước, hắn giả từ những năm tháng “Trước là sĩ sau là khanh tướng” và mối
t́nh thơ mộng ở vùng phố núi đầy sao, để luân lạc từ nhà tù nầy sang nhà
tù khác, đầu tiên là trại 15 NV tại Long Thành, ở đây hắn đă gặp lại đông
đảo bạn bè cùng khóa, họ từ vùng một địa đầu giới tuyến, vùng hai, vùng ba
di tản chiến thuật, tháo chạy về thủ đô trước đây một vài tháng, hay vùng
bốn yên b́nh để đi t́m một ảo vọng an toàn nào đó sau khi mất nước, với
niềm hy vọng làm lại cuộc đời sau 15 ngày hay một tháng cải tạo, tất cả
đều ngây thơ chui vào rọ một cách tự nguyện với từ ngữ mới “tŕnh diện học tập cải tạo”. Thực sự Việt Cộng rất bất ngờ khi chiếm được toàn miền Nam
tháng tư năm 1975 nên họ chưa có một kế hoạch cụ thể nào đối với những
người chiến bại, đặc biệt là đối với tầng lớp sĩ quan và viên chức trung
cao cấp của Việt Nam Cộng Ḥa nên trong năm đầu tiên trại cải tạo thực tế
chỉ là những nơi giam giữ những người bại trận, dù thế mặt trận chính trị
của họ cũng mang lại hiệu quả đáng sợ. Nghĩ lại, chúng ta rất đáng tự hào
với hàng ngũ cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh, khi mất nước, bại vong hầu
hết vẫn giữ được ḷng tự trọng, tính liêm sĩ của kẻ sĩ dù đă mạt vận, việc
qú gối nhục nhă, làm ăng ten cho kẻ thù đă không hề xảy ra, trong khi ở
các nơi khác th́ khá phổ biến, như có một nhạc sĩ chuyên viết những t́nh
ca nỗi tiếng, xuất thân từ trường Luật, nhưng khi vào trại 15 NV đă viết
những bản nhạc có những lời ca đại loại như: “Nay biết rơ những tội lỗi
của ḿnh, xin hứa quyết hối hận việc làm đă qua, bao nhiêu năm cúc cung
tận tụy miệt mài, cứ ngỡ là ḿnh yêu đất nước, đâu biết là phản lại non
sông…”. Những bài hát tung hô cách mạng và sám hối tội lỗi ra rả hằng đêm
tại trại cải tạo 15 NV.
Đến cuối năm 1976, hắn là một trong số 250 tù nhân khác của
trại “du hành” ra miền Bắc trên chiếc tàu mang tên “Sông Hương”, ăn
ị một
chỗ dưới hầm tàu đến cả không khí để thở cũng không đủ và được đưa về giam
giữ tại trại Phú Sơn thuộc tỉnh Bắc Thái. Mùa hè năm 1979, tất cả tù cải
tạo chính trị của trại nầy được chuyển cấp tốc về trại tù nỗi tiếng Ba
Sao, c̣n gọi là trại Nam Hà của tỉnh Hà Nam Ninh khi Trung Quốc lăm le tấn
công vào các tỉnh phía Bắc để dạy cho chính quyền Cộng Sản Việt Nam một
bài học. Các trại tù Phú Sơn, Nam Hà nầy khét tiếng về sự tàn bạo đối với
tù nhân và sự đói khổ, cùng cực của nó.
Trong tù hắn sống lặng lẽ, cam chịu, v́ ốm đói triền miên nên
thây hắn cao lênh khêng, xiêu vẹo, đến năm 1980 hắn gần như sụp đổ hoàn
toàn, có một điều an ủi cho hắn là từ ngày chuyển trại ra miền Bắc đến giờ
hắn đều ở chung một đội với Giáo sư Nguyễn văn Tương, thầy tṛ gần nhau,
tâm đầu ư hợp dù đói dù buồn. Từ năm 1979 đă có chương tŕnh thăm nuôi,
nhưng hắn vẫn là một tù nhân mồ côi, v́ nhà hắn bây giờ quá nghèo mà quê
nhà th́ xa lơ xa lắc. Măi đến một buổi chiều cuối năm 1981, trời rét đậm,
hôm đó không phải đi lao động v́ là ngày chủ nhật và cũng là ngày thăm
nuôi, tên hắn được gọi sau cùng, hắn ngỡ ngàng v́ không bao giờ nghĩ rằng
ḿnh lại có người thăm nuôi, hắn kéo lê đôi chân bị tê thấp ra cổng trại
và sửng sốt khi thấy mẹ ḿnh đứng đón, bà cụ trông già yếu khẳng khiu,
đứng run rẩy trong gió lạnh, cụ ̣a khóc khi thấy hắn, thằng con đầu lanh
lẹ, dễ thương ngày nào, nay già hóp, đói rách, xanh xao, khập khểng. Hắn
cố gắng ngăn ḍng lệ chực trào ra để ngoặt miệng cười, nhưng nụ cười của
hắn càng thăm hơn tiếng khóc. Cụ mang ra cho con mấy kư gạo, vài kư đường
tán, nồi cá kho mặn và quả dưa hấu của miền quê hắn, cụ thấy hắn như ngọn
đèn sắp tắt, sợ không gặp được con lần nữa nên vừa khóc vừa hỏi hắn có
muốn “trối” lại điều ǵ không…. Ba mươi phút gặp
mẹ qua thật nhanh, đến
khi chia tay không ḱm được, hắn ̣a lên khóc, mẹ cũng khóc. Trời sắp tối,
mưa phùn, gió bấc, không biết ḷng buồn khổ thương con như thế nào mà cụ
như người mất hồn, lặn lội trong đêm đi bộ xuyên rừng lần ṃ về ga Phủ Lư,
đón tàu xuôi Nam.
Đến năm 1982 hắn được chuyển về Nam, về trại Hàm Tân tỉnh B́nh
Tuy, ngồi trong toa tàu lửa nhếch nhác, phân cách với các toa khác, bị áp
tải bởi Công An, tất cả tù nhân đều bị c̣ng tay, nhưng khi nh́n qua cửa
sổ, cứ qua mỗi ga xuôi về miền Nam hắn thấy như được trở lại thiên đường,
đến ga Quảng Trị, rồi Huế hắn thấy sao mà thương yêu đến thế, đất nước của
ḿnh đây, tổ quốc của ḿnh đây….Đầu năm 1984 hắn được tha ra khỏi trại.
Gần ba năm phục vụ chế độ quốc gia, hắn trả giá bằng 10 năm bị đọa đày
trong các nhà tù Cộng sản.
***
Ông cụ đă ra tới ngơ nhưng rồi lại hấp tấp quay trở vào và vặn hỏi cô con
gái vẫn c̣n đứng ở góc sân: “Nếu nó thực sự bị tàn phế con vẫn không thay
đổi chứ? ”, cô gái lặng lẽ gật đầu, ông cụ vỗ nhẹ lên vai cô rồi rảo bước
đi về bến xe tỉnh lỵ để lên đường vào Nam. Buổi sáng sương vẫn c̣n đọng
trên những bụi hoa dại ven đường, nếu tàu xe thông suốt từ Kontum về đến
Cai Lậy, Mỹ Tho phải mất ba ngày tàu xe. Ông cụ vừa đi vừa suy nghĩ vẫn
vơ: Sau biến cố 1975 v́ là Trưởng ty nên cụ phải đi cải tạo 5 năm, cô con
gái lớn bỏ học phụ với mẹ làm ăn, mua bán để thăm nuôi cha và nuôi các em.
V́ có nhan sắc và siêng năng, bặt thiệp nên có nhiều đám xin dạm hỏi,
nhưng cô nhất mực từ chối. Mười năm đổi đời, mọi giá trị xă hội đều thay
đổi nhưng cô con gái cưng của cụ vẫn không thể nào quên hắn, quên mối t́nh
đầu của ḿnh, cô se sắt đợi chờ. Trong năm đầu tiên, cô có nhận được vài
lần thư của hắn, nhưng từ đó biền biệt bặt vô âm tín, măi đến cách đây ba
tháng cô nhận được thư của người em gái hắn báo tin hắn đă được ra trại và
về sống tại Cai Lậy, quê ngoại của hắn, sau đó cô đă gởi thư cho hắn nhiều
lần nhưng không có hồi âm. Tháng trước, có người quen của gia đ́nh cô
thỉnh thoảng đi buôn chuyến quả quyết rằng có nh́n thấy hắn ở Sài g̣n,
nhưng ông Phó tỉnh bây giờ bị liệt, chống gậy đi bán vé số dạo quanh hồ
con rùa, không biết tin tức nầy có chính xác hay không nhưng thấy con buồn
rầu khóc thương hắn, ông cụ quyết định phải vào Nam một chuyến để thăm ḍ
thực hư ra sao, dù cô gái khẳng định với cha rằng cho dù hắn thế nào đi
nữa cô vẫn thương hắn, vẫn không lấy ai khác ngoài hắn.
Nắng tháng ba ở miệt quê hắn như đổ lửa, đă hơn bốn giờ chiều
rồi mà vẫn chói chang, hắn xoay trần, vắt tay lên trán nằm buồn thiu trên
vơng, mẹ và các em c̣n đang chạy chợ chưa về, nhà trống trước trống sau,
không tài sản, không việc làm, không tương lai…Hắn hoàn toàn bế tắc, đă
hơn ba tháng kể từ ngày ra tù, hắn về sống với gia đ́nh, nhưng cuộc sống
mới nầy cũng không cho hắn một tia hy vọng nào. Nhiều lúc hắn nghĩ tới
nàng, sau mười năm xa cách t́nh yêu của hắn với nàng vẫn c̣n nguyên vẹn,
nhưng biết phận ḿnh bây giờ hắn nào dám mơ ước xa xôi ǵ đâu, hắn cố quên
nhưng nào quên được, nhưng hắn lại mong nàng quên hắn, người con gái chỉ
có một thời xuân sắc mà nay nàng đă ngót ba mươi tuổi, chính v́ thế mà từ
ngày ra trại tới giờ hắn không dám viết thư cho nàng, kể cả khi nhận được
lá thư rất thiết tha của nàng….Bỗng mơ hồ hắn nghe như có ai hỏi thăm nhà
hắn, tên hắn, hắn choàng dậy và khi nhận ra ông cụ hắn ngỡ ngàng không
thốt nên lời, ông cụ già đi nhiều, tóc bạc trắng nhưng hắn vẫn nhận ra
ngay. Sau vài phút bỡ ngỡ, ông cụ và hắn ôm choàng lấy nhau, mừng mừng tủi
tủi, tuy vậy hắn vẫn lấy làm lạ thấy ông cụ cứ nh́n chầm chầm vào chân hắn
và mĩm cười vui vẻ, th́ ra cụ thấy hắn ốm yếu nhưng vẫn liền lạc chứ có
què liệt ǵ đâu. Lúc đó, mẹ và các em hắn về, vui mừng và cảm động với
chuyến thăm bất ngờ của ông cụ. Tối đó hắn mời ông cụ một bữa cơm thanh
đạm, nhưng rất thân mật. Sáng hôm sau, hắn đưa cụ ra tiệm ảnh của thị
trấn chụp bức h́nh hai người để cụ gửi cấp tốc về cho cô con gái. Ba tháng
sau (tháng 6 năm 1985) đám cưới của hắn đă được tổ chức.
Hắn đưa mẹ và em gái ra Kontum để làm đám cưới. Hơn mười năm
trước, thân sinh hắn rất ngại ngùng khi hắn thưa chuyện về nàng, v́ nàng
là người xứ ngoài, lại là người Công Giáo, nhưng bây giờ hai cụ và cả gia
đ́nh hắn rất cảm động v́ biết nàng đă đằng đẳng đợi chờ hắn mười năm, tháo
vát tảo tần chứ không c̣n là cô tiểu thư được cưng chiều ngày xưa.
“Mười năm ấy bao lần sông đổi nước,
Băi
dâu làng qua mấy lượt cát bồi ” …,
Thơ Ngũ Hà Miên
Nhà nghèo, cụ gom góp chỉ được 3000 đồng, đủ để đánh hai chiếc
nhẫn cưới năm phân. Hắn bỡ ngỡ và hết sức cảm kích khi được hàng trăm nhân
viên và những người quen biết cũ đến mừng đám cưới hắn. Có sống ở Việt Nam
vào năm 1985 mới ư thức đầy đủ việc một Phó tỉnh trưởng trở lại nơi làm
việc cũ của ḿnh để lấy vợ, được đón tiếp niềm nở thân thiết, không sợ
mạng lưới Công an thời đó, mới thấy hắn đă làm việc, đă cư xử với mọi
người như thế nào thời hắn c̣n tại chức. Hắn vẫn nhớ được mừng đám cưới
16 ngàn đồng, số tiền thật to tát với hắn lúc đó. Nh́n tấm ảnh cưới của
hắn, bên cạnh cô dâu tươi tắn, xinh đẹp, hắn cao nhồng, mỏng tanh, bộ đồ
veston hắn mặc, chắc được may trong thời kỳ c̣n huy hoàng của hắn nay hắn
diện vào, làm ta chợt nhớ đến đôi giày
quá khổ mà danh hề Charlot vẫn mang.
Nhưng sống trong một xă hội kỳ thị, gian dối và cùng khổ làm
sao tồn tại được h́nh tượng một mái nhà tranh hai quả tim vàng, cuộc sống
của hắn vẫn tiếp tục bế tắc và không c̣n con đường nào khác ngoài việc t́m
đường vượt biên. Hắn vốn là người quảng giao, lại có thành tích ngụy quyền
và tù tội nên nhiều người tín nhiệm hắn trong vai tṛ tổ chức. Hắn móc nối
được khoảng sáu mươi người trong đó có vài cựu sinh viên QGHC, vài sĩ quan
cấp Tá, một thượng sĩ hải quân để làm giám lộ, nhưng tên thượng sĩ nầy
hiện đang bí mật làm việc cho Sở Công An nên chuyến đi đă bị giăng bẩy. Theo kế hoạch,
có một ghe nhỏ chở người ẩn lánh lần lượt ra ghe lớn đậu cách đó khoảng
một cây số, hắn không biết là tất cả những người được chở ra trước đều đă
bị tóm gọn, hắn là người tổ chức, người điều hợp nên di chuyển sau cùng.
Phút cuối, hắn linh cảm có điều ǵ đó bất ổn nên dặn một người bạn di
chuyển trước hắn cố ư bỏ lại chiếc dép trên ghe nhỏ trước khi lên ghe lớn
nếu an toàn, nhưng khi chiếc ghe nhỏ quay trở lại đón nhóm sau cùng, hắn
không thấy chiếc dép ám hiệu nầy, hắn biết đă bị lộ, bị đưa vào rọ nên kéo
cô vợ và bốn người c̣n lại ù chạy. Không dám về lại nhà, hắn chạy lên ẩn
náu tại nông trường cao su ở Củ Chi, sống lén lút trong nhà của một người
bạn nhỏ tuổi dạy học tại đây. Chuyến đi hoàn toàn thất bại, Công
an tịch
thu và chia chác tài vật của người vượt biên mang theo, phân loại và tống
hầu hết mọi người bị bắt vào tù, hắn lọt sổ, nhưng hắn lại là một cựu viên
chức cao cấp có mười năm cải tạo và là người tổ chức chuyến đi lại trốn
thoát được, nên họ quyết tâm phải t́m mọi cách tóm cho được hắn, họ c̣n
nghi ngờ rằng hắn là một điệp viên được cài lại.
Vận đen vẫn cứ
bám hắn, sợ gia đ́nh lo lắng v́ sự mất tích của vợ chồng hắn nên hắn đă bí
mật báo tin về cho cha mẹ ḿnh, ông bà cụ thương nhớ vợ chồng hắn nên t́m
cách đi thăm nào biết rằng Công an đă thường xuyên lén lút theo dơi gia
đ́nh hắn và đă bí mật bám đuôi bà cụ khi cụ đi thăm hắn. Ngày hôm sau,
một xe chở Công an trang bị vũ khí ập vào căn nhà ẩn náu của hắn, c̣ng tay
và bịt mắt vợ chồng hắn và chở về Sở Công an Tiền giang.
Sau mười mấy tháng ra tù nay hắn lại trở vào tù, khác chăng là
lần nầy là người vợ thương yêu của hắn cùng ở chung một nhà với hắn chỉ
khác pḥng giam. Hắn cắn răng chịu đựng những đ̣n tra tấn thừa sống thiếu
chết của Công an, tụi gian ác nầy cố khai thác xem hắn có móc nối với điệp
báo trong và ngoài nước hay không? Những đ̣n tra tấn dă man nầy không đưa
đến kết quả mong muốn của họ v́ thực sự hắn có làm gián điệp ǵ đâu, cuối
cùng hắn được đối xử như một thường phạm. Sau hai năm thấy hắn hiền ḥa,
đàng hoàng lại có tŕnh độ nên họ bố trí hắn coi kho gạo tại trại tù Mỹ
Phước, trực thuộc Công an Tiền Giang, thời gian sau nầy cuộc sống trong tù
của hắn tương đối dễ thở hơn, được ăn no, được những tù nhân khác thương
mến v́ tính t́nh hiền ḥa và hay giúp nguời của hắn.
C̣n vợ hắn, chị được
tha ra sau sáu tháng v́ chị không biết ǵ về tổ chức vượt biên của hắn,
giấy ra trại của chị ghi được tha về địa chỉ ở Kontum v́ chị không có hộ
khẩu ở Tiền Giang, quê hắn. Nhưng chị cố nài xin được về Cai Lậy, Mỹ tho
với lư do xin được ở gần để đi thăm nuôi hắn, cảm động v́ tấm ḷng của chị
đối với chồng, viên sĩ quan an ninh phụ trách nội vụ đồng ư cho chị về quê
chồng. Đến đầu năm 1989, hắn lại được tha sau 3 năm tù tổ chức vượt biên.
“Khi tôi về, có con chim……”, bây giờ hắn đă bốn mươi tuổi,
ngày trở về ông cụ thân sinh đă nói với hắn: “Con nay đă có tuổi rồi, ai
cũng có số mệnh cả, thôi con hăy cố gắng sống an phận như mọi người ở đây,
bôn ba không qua thời vận…” Lúc đó hắn thất chí, mỏi mệt, chán chường nên
lặng lẽ nghe lời ông cụ, và con gái đầu ḷng của hắn ra đời tháng 11 năm
1989 cũng theo sự lặng lẽ...hằng đêm nầy của hắn. Hồi đó người ta đồn rằng ai ở tù
lâu năm, thường bị teo c̣, nhưng kinh nghiệm thực tế của hai người bạn chúng
ta là hắn và một người bạn khác th́ ngược lại, v́ ngày hắn ra tù cộng thêm
chín tháng nữa là vừa đúng ngày sinh nhật của cháu
bé vừa tốt nghiệp Thủ khoa
Trung học như đă nói ở trên. C̣n một người bạn khác với
mười chín năm tù, qua Mỹ bảy năm sinh liền ba nhóc, vừa trai vừa gái, cái
đó gọi là…nung nấu, hun đúc chứ làm ǵ có chuyện
kiệt lực.
Thời gian nầy hắn theo gương Luu Bị bán chiếu thời Tam quốc
bên Tàu, hắn trở thành anh hàng guốc. Vợ chồng hắn mở một sạp bán guốc dép
tại chợ Cai Lậy, vợ hắn tháo vát, siêng năng, cửa hàng hắn ngày càng khấm
khá, hắn thỉnh thoảng lại lên Chợ Lớn bổ hàng và trong những ngày hắn hồi
sinh nầy, tôi may mắn được gặp lại hắn, hai thằng bạn sồn sồn nầy thường
xoay trần nhậu với nhau, hắn khoái nhậu mà khi đă nhậu th́ tới bến nhưng
khổ nổi là tửu lượng bây giờ của hắn chỉ làng nhàng nên hắn xỉn liên tục.
Ngoài việc đi bổ hàng và thỉnh thoảng thế vợ ngồi rung đùi ngoài chợ, hắn
có một niềm vui nho nhỏ là hằng ngày hắn lóng phèn lọc sạch nước cho vợ
hắn tắm, v́ dù sống ở quê hắn đă gần năm năm, nhưng chị vẫn không quen
được với màu nước đục ngầu của ḍng sông Tiền.
Đến năm 1993 gia đ́nh hắn được định cư ở Mỹ theo chương
tŕnh HO, cháu bé thứ hai rất dễ thương của hắn ra đời năm 1997.
Miên man nghĩ về hắn,
với gần mười
lăm năm luân lạc trăi qua bao khổ đau như thân phận nàng Kiều, tôi lại nhớ
tới đoạn văn kết của Sô lô khốp trong cuốn
Sông Đông Êm
Đềm…“ Năm tháng sẽ qua đi, chiến tranh sẽ chấm dứt, băo táp cách mạng sẽ thôi gào thét, chỉ c̣n lại
không phôi pha tâm t́nh em nhẫn nại dịu dàng, chan chứa niềm yêu thương…”
California, July 4, 2007
Ngô Xuân Vũ
Kontuum 1985